DIGOXIN

 DIGOXIN


1.Ức chế bơm Na-K ATPase:

Digoxin gắn kết tiểu đơn vị alpha của bơm Na-K ATPase trên màng tế bào (gắn kết chủ yếu tại tế

bào tim và có thể ở cơ trơn mạch máu) làm tăng thoáng qua Na+ trong tế bào, điều này làm ngừng

trao đổi Na+ đi vào và Ca2+ đi ra gây tăng Ca2+ nội bào, tăng sức co bóp cơ tim. Một số ứng

dụng từ cơ chế này:

- Digoxin làm tăng phân suất tống máu, giảm áp lực mao mạch phổi bít khi nghỉ và cả khi gắng

sức ở BN suy tim tâm thu. Tuy nhiên người ta quan sát thấy rằng: khi huyết động BN đã được ổn

định ban đầu với thuốc lợi tiểu và ức chế men chuyển thì việc cho Digoxin khẩn cấp thêm vào

không cho thấy cải thiện cung lượng tim và ALMMPB, nên ít có vai trò trong suy tim cấp. Nhưng

sự cải thiện huyết động sẽ đạt được khi sử dụng Digoxin lâu dài, vì vậy nó có vai trò trong suy tim

mạn.

- Ở người có PXTM bình thường hoặc bị suy tim cung lượng cao, mặc dù có tăng thêm sức co

bóp cơ tim nhưng Digoxin không ảnh hưởng trên CLT vì bị trung hòa bởi tình trạng tăng kháng

lực mạch hệ thống (cơ trơn mạch máu), do vậy không có vai trò Digoxin trong các trường hợp

này.



- Ở người có bệnh tim thiếu máu cục bộ, năng lượng ATP cần cho hoạt động bơm Na trong tế

bào cơ tim suy giảm nên hiệu quả của việc dùng Digoxin sẽ kém hơn. Ngoài ra trên thực nghiệm

người ta còn ghi nhận Digoxin có thể gây co thắt mạch vành (thông qua co thắt cơ trơn mạch

vành), đồng thời việc tăng công cơ tim càng thúc đẩy thiếu máu cục bộ cơ tim.

Khi dùng Digoxin lâu dài (ức chế bơm Na lâu ngày), bằng chứng ghi nhận được từ các nghiên

cứu thực nghiệm cho thấy không có sự điều hòa lên của bơm Na, nên hiệu quả của Digoxin vẫn

đạt được khi dùng lâu dài.

2. Ảnh hưởng trên hệ thần kinh tự động và Renin-Angiotensin:

Digoxin còn hoạt động trên thần kinh-thể dịch chứ không chỉ đơn thuần là tăng co bóp cơ tim

Hoạt hóa phó giao cảm:

- Digoxin làm tăng trương lực phó giao cảm trên nút xoang và nút nhĩ-thất gây giảm tần số tim và

chậm dẫn truyền nhĩ-thất, vì vậy được ứng dụng điều trị làm giảm đáp ứng thất trong rung nhĩ.

- Tác dụng tăng trương lực phó giao cảm không ảnh hưởng trên đường dẫn truyền phụ, nên không

dùng Digoxin ở BN nhịp nhanh trên thất có dẫn truyền qua đường phụ (vì có thể làm tăng tần số

thất)

- Tính hoạt hóa phó giao cảm này cũng giải thích phần nào triệu chứng ngộ độc Digoxin như: buồn

nôn, nôn, chán ăn...

Ức chế giao cảm:

- Digoxin làm tăng sức co bóp, tác động trên thụ thể áp cảm thụ quan (Baroreceptor) làm ức chế

phát xung động thần kinh giao cảm, giảm nồng độ norepinephrine và hoạt tính rennin trong huyết

thanh.

- Điều này xảy ra trước bất kỳ thay đổi huyết động nào và có thể đóng vai trò quan trọng trong suy

tim. Bằng chứng ghi nhận rằng, tại liều thấp tuy không ảnh hưởng trên co bóp, nhưng Digoxin

cũng làm giảm catecholamine, tuy nhiên việc tăng liều để đạt hiệu quả co bóp cũng ít làm thay đổi

thêm tác động trên thần kinh - thể dịch. Vì vậy nó cũng có tác dụng ức chế giao cảm trực tiếp chứ

không chỉ thông qua Baroreceptor.

- Digoxin có tác dụng ức chế giao cảm không mạnh (không tác dụng trực tiếp trên thụ thể giao

cảm như thuốc ức chế β) mà chủ yếu làm chậm nhịp và chậm dẫn truyền AV qua tăng trương lực

phó giao cảm.

3. Giảm phóng thích rennin:


Digoxin làm giảm hoạt động của bơm Na+ tại thận (bơm bài tiết Na+ tại thận) giảm tái hấp thu

Na+ ống xa và gây giảm tiết rennin từ thận. Sự giảm phóng thích rennin sẽ dẫn đến dãn mạch làm

trung hòa bớt cơ chế gây co mạch trực tiếp của Digoxin.

* Ảnh hưởng trên điện sinh lý tim:

là do tác dụng ức chế bơm Na và trên TK tự động của Digoxin

- Tại liều điều trị: Digoxin làm giảm tần số xoang, kéo dài thời kỳ trơ và chậm dẫn truyền AV, tuy

nhiên không ảnh hưởng trên các sợi Purkinje và cơ thất. Liều điều trị Digoxin không làm tăng RLN

khi không có TMCB cơ tim.

- Tại liều gây độc: do ứ Ca nội bào nhiều làm thúc đẩy cơ chế hậu khử cực muộn gây tăng phát

xung tự động sợi cơ nhĩ (không phụ thuộc vào hệ thống TK tự động). Tăng tái cực tự phát thì tâm

trương dẫn đến RLN tự phát nhanh của các sợi Purkinje. Bên cạnh đó nó còn gây bloc AV cao độ

qua trung gian cholinergic . Vì vậy, rối loạn nhịp điển hình của ngộ độc Digoxin thường là nhịp

nhanh nhĩ kịch phát kèm block AV, ngoại tâm thu thất nhịp đôi.

TỔNG QUAN

dùng canxi tĩnh mạch trước đây là chống chỉ định để điều trị tăng kali máu trong nhiễm độc digoxin.

Điều này được dựa trên lý thuyết của Stone Heart: canxi có thể dẫn đến tình trạng không co bóp

không thể đảo ngược, do giãn thì tâm trương do canxi gắn troponin C. Canxi cũng có thể ảnh

hưởng đến loạn nhịp bằng cách gây chậm khử cực.

CƠ CHẾ TÁC DỤNG

Digoxin là một glycoside tim.

glycosid tim gây ức chế bơm Na / K ATPase trên bề mặt của tế bào cơ tim.

Điều này dẫn đến tăng nội bào Na.

-> Làm giảm vận chuyển canxi natri phụ thuộc sự vào ra ở tế bào cơ

-> Tăng nồng độ canxi trong tế bào

-> Tăng lực co cơ và tính tự động

Điều này cũng giảm K đi vào các tế bào bởi bơm Na / K ATPase gây tăng kali máu

glycosid tim cũng ức chế sự hoạt động tại các nút xoang nhĩ và nhĩ thất gây chậm nhịp tim

Điều thú vị, nhiều bằng chứng thực nghiệm gần đây cho thấy rằng glycosid tim cũng tạo nên các

kênh canxi trong lớp lipid kép, có thể hòa nhập canxi vào các tế bào (Arispe et al, 2008).

CĂN CỨ CỦA LÝ THUYẾT 'STONE HEART'

Cơ sở cho giả thuyết của Stone Heart 'bao gồm:

Tác dụng dựa trên cơ chế mô tả ở trên

Canxi làm tăng độc tính của digoxin trong mô hình thực nghiệm ở động vật.

Có những báo cáo cho thấy thời gian dùng canxi và tử vong ở người.

VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA 'STONE HEART'

Nhiều vấn đề chống lại giả thuyết của Stone Heart ':

Có những báo cáo trường hợp sử dụng canxi ở những bệnh nhân ngộ độc digoxin mà không có

bất kỳ tác động xấu nào.

Levine và cộng sự (2011) cho thấy không có bằng chứng liên quan rối loạn nhịp ác tính hoặc tử

vong tăng lên ở những bệnh nhân nhiễm độc digoxin ở người có tiêm canxi tĩnh mạch

Các chống chỉ định dùng IV canxi khi tăng kali máu có ngộ độc digoxin không phải dựa trên bằng

chứng.

Tăng kali máu trong ngộ độc digoxin có xu hướng cải thiện khi digibind - đây là điều trị ban đầu

được lựa chọn.


Dùng Canxi có vẻ an toàn để điều trị tăng kali máu cấp trong nhiễm độc digoxin mãn tính

Bất kể, trong trường hợp nào có tăng kali máu đe dọa tính mạng mà biểu hiện ngộ độc digoxin là

nghi ngờ nhưng chưa được xác nhận, có khả năng cứu sống nhờ tiêm canxi IV nên được tiến

hành vì nguy cơ gây “Stone heart – tim cứng như đá”.

Digoxin có biết, tâm thất nào cho nó hoạt động ở bệnh tim do phổi

(cor-pulmonale)?

Digoxin là một loại thuốc tim mạch kỳ lạ được sử dụng trong hơn một thế kỷ qua.

Cơ chế tác dụng

Tác dụng có lợi của Digoxin là do

Co cơ dương tính

Tác dụng phế vị

Digoxin chặn kênh Na-K-ATPase ở màng tế bào cơ

Điều này gây ra tích tụ các ion Na + bên trong các tế bào. Sự vƣợt quá nồng độ Na,

tạo thuận lợi cho trao đổi Na-Ca.

Nó sẽ giúp bơm nhiều canxi hơn vào tế bào cơ.

Tăng canxi có nghĩa là sự co thắt mạnh mẽ hơn và đó là tính co cơ tích cực (dương

tính) *.

Đây là mô hình đơn giản hóa tác dụng của digoxin. Nên nhớ sự dư thừa canxi đơn

thuần không thể đảm bảo sự co bóp vì nó đòi hỏi các thụ thể cũng phải đầy đủ

Digoxin được sử dụng trong loại suy tim nào?

Digoxin được sử dụng cho cả suy thất trái và suy 2 thất

Digoxin vẫn thường dùng cho suy thất phải vì bất kỳ nguyên nhân nào (bệnh tim

do phổi, PPH, Eisenmenger vv)

Rối loạn digoxin và RV?

Digoxin có khuynh hướng tác động lên cơ tâm nhĩ gây ra các vòng vào lại nhỏ để

quay về nhịp nút xoang sau các rối loạn nhịp nhĩ phức tạp như MAT.

Nó có gây co cơ RV?

RV là một máy bơm thụ động. nhưng không có nghĩa là co cơ là đặc tính đặc

trưng chỉ của LV.

RV phải tạo ra áp lực khoảng 30mmhg để bơm máu vào phổi.

Trong bệnh tim do phổi, RV phải hoạt động chống lại hậu tải khoảng 50-70 mmhg,

làm cho khái niệm co cơ RV quan trọng hơn nhiều.

Kiểm soát tần số ở bệnh nhân rung nhĩ, Digoxin làm giảm tần số tim bằng tác động

phế vị, chủ yếu ở nút AV và ở mức độ nào đó với nút SA. Giảm tần số thất là mục

tiêu chính trong điều trị rung nhĩ và vinh quang này vẫn thuộc về Digoxin

Mặc dù thuốc chẹn beta và verapamil có thể được sử dụng nhƣ tác nhân kiểm soát

tần số, nhƣng có lực co cơ âm làm digoxin chiếm ƣu thế, đặc biệt là ở bệnh nhân

rối loạn chức năng thất nghiêm trọng.

Tuy nhiên, một trong những bất lợi của Digoxin, ít hiệu quả khi giao cảm bị kích

thích như khi gắng sức

Tác dụng của digoxin đối với sự co vách tâm thất?

Digoxin, đơn giản là không biết nó tác dụng ở đâu khi dùng cho bệnh nhân có bệnh

tim do phổi! theo logic sẽ rối loạn thất trái.

Một số người tin rằng cải thiện rối loạn chức năng thất trái ở bệnh tim do phổi

quan trọng hơn việc làm giảm triệu chứng của bệnh nhân

Các thuốc khác làm co RV là gì?

Doubtamine có gây co cơ RV. Điều này có thể do hiệu ứng từ LV chứ không phải

do kích thích RV

Có lẽ cách tốt nhất để cứu RV là làm giảm áp lực động mạch phổi

(Nitric Oxide, Epo prostenol vv)

Thông điệp cuối cùng

Digoxin, thực sự có vai trò hữu ích trong bệnh tim do phổi.

Tuy nhiên, lợi ích rõ ràng hơn trong suy thất phải RV giai đoạn cuối

Vì có khuynh hướng gây loạn nhịp tim phức tạp, nên thận trọng khi điều trị rung

nhĩ do bệnh tim do phổi (hơn ở các dạng AF khác)

About the author

TBFTTH
Cuộc đời thì ngắn, mà nghề thì miên man;cơn bệnh phập phù;kinh nghiệm hiểm nguy, còn quyết định thì thật khó.Người thầy thuốc không phải chỉ chuẩn bị để tự mình làm đúng, mà còn khiến cho bệnh nhân, người đi theo và các yếu tố xung quanh hợp tác hài…

Đăng nhận xét