Theo định nghĩa, hạ natri máu là nồng độ natri huyết thanh dưới 135 mEq/L (135 mmol/L). Giả hạ natri máu, một dạng giả của hạ natri máu độ thẩm thấu bình thường, có thể xảy ra khi có tình trạng tăng lipid máu, tăng protein máu hoặc tăng đường huyết nặng khi nồng độ natri được đo bằng phương pháp quang kế ngọn lửa(Flame photometry). Độ thẩm thấu huyết thanh quyết định tình trạng hạ natri máu thực sự. Giá trị độ thẩm thấu huyết thanh 280–295 mOsm/kg cho thấy giả hạ natri máu do tăng lipid máu hoặc tăng protein máu. Giá trị độ thẩm thấu huyết thanh lớn hơn 295 mOsm/kg cho thấy tăng đường huyết hoặc sử dụng mannitol là nguyên nhân gây ra nồng độ natri huyết thanh thấp. Hạ natri máu thực sự được chỉ ra khi giá trị độ thẩm thấu huyết thanh dưới 280 mOsm/kg.
Nếu độ thẩm thấu huyết thanh loại trừ tăng đường huyết hoặc mannitol là nguồn gốc gây hạ natri máu và rằng có hạ natri máu thực sự thì tình trạng thể tích của bệnh nhân cần được đánh giá. Biểu hiện lâm sàng, cùng với độ thẩm thấu nước tiểu và natri nước tiểu(Una), được sử dụng để xác định tình trạng thể tích. Phân suất bài tiết natri là một giá trị bổ sung có thể hỗ trợ xác định tình trạng thể tích. Độ thẩm thấu nước tiểu(Uosm) < 100 mOsm/kg cho thấy nồng độ chất tan thấp do uống nước nhiều(khát nhiều) nguyên phát, lượng natri đưa vào thấp hoặc nghiện bia. Độ thẩm thấu nước tiểu > 100 mOsm/kg cho thấy sự rối loạn cân bằng natri/nước. Giảm thể tích máu, bình thể tích máu hoặc tăng thể tích máu được xác định bằng cách sử dụng chẩn đoán và biểu hiện lâm sàng. Cần phải hoàn thành việc xem xét hồ sơ quản lý thuốc để nhận định bất kỳ loại thuốc nào có thể ảnh hưởng đến nhu cầu cân bằng natri-nước. Các giá trị natri trong nước tiểu và phân suất bài tiết natri (FENa) thu hẹp nguyên nhân cơ bản gây hạ natri máu để kiểm soát chính xác rối loạn và điều chỉnh nồng độ natri.
Trích: FCCS 2021