Điểm chính
- Liraglutide và insulin có hiệu quả hơn glimepiride và sitagliptin trong việc duy trì nồng độ A1c < 7%. Sitagliptin là thuốc điều trị có hiệu quả thấp nhất khi so sánh với 3 nhóm thuốc còn lại.
- Bệnh nhân được điều trị bằng liraglutide và sitagliptin giảm được nhiều cân nặng hơn.
- Liraglutide có thể có nhiều lợi ích hơn so với 3 nhóm thuốc còn lại về tiêu chí làm giảm các biến cố tim mạch. Tuy nhiên, đối với 2 kết cục chính trên tim mạch là biến cố tim mạch chính (MACE) và nhập viện vì suy tim, liraglutide có nhiều lợi ích nhưng lại không có ý nghĩa.
Mở đầu
Ngày 28 tháng 06 năm 2021, phiên hội nghị của Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ (ADA) lần thứ 81 đã diễn ra. Phiên hội nghị ngày 28/06 đã công bố kết quả của nghiên cứu phân độ sự đánh giá, phát triển và lượng giá các khuyến cáo (GRADE) có quy mô lớn nhất với thời gian nghiên cứu dài nhất so sánh hiệu quả của các thuốc điều trị đái tháo đường type 2 [1].
Nội dung phiên hội nghị
Nghiên cứu đã tiến hành so sánh 4 thuốc điều trị đái tháo đường phổ biến nhất thường được lựa chọn để phối hợp với metformin, bao gồm 2 tác nhân đường uống glimepiride (sulfonylurea) và sitagliptin (chất ức chế dipeptidyl peptidase – 4 (DPP – 4)), 2 tác nhân đường tiêm insulin glargine và liraglutide (chủ vận thụ thể glucagon like – peptide 1 (GLP – 1)). Tiêu chí chính của nghiên cứu là sự thay đổi của nồng độ A1c (nồng độ A1c < 7%), tiêu chí phụ là sự thay đổi cân nặng, các biến chứng trên tim mạch, thận, đường tiêu hóa và các biến chứng khác. Các tác động bất lợi do thuốc điều trị cũng được ghi nhận trong nghiên cứu.
Nghiên cứu bao gồm hơn 5000 bệnh nhân đái tháo đường type 2, độ tuổi trung bình là 57 tuổi và số năm mắc đái tháo đường trung bình là 4 năm. Sau khi phân ngẫu nhiên, mỗi nhóm điều trị có gần 1250 bệnh nhân.
Xét đến tiêu chí chính (duy trì nồng độ A1c < 7%), sau 5 năm theo dõi, kết quả nghiên cứu cho thấy liraglutide và insulin là thuốc điều trị hiệu quả hơn những tác nhân còn lại. Sitagliptin mang đến hiệu quả điều trị thấp nhất. Tuy nhiên nếu xét A1c < 7.5%, insulin là tác nhân có hiệu quả điều trị cao nhất. Kết quả này không có sự khác biệt giữa giới tính, độ tuổi và chủng tộc.
Một số kết quả nghiên cứu khác bao gồm:
- Giảm cân: Bệnh nhân điều trị với liraglutide và sitagliptin giảm được nhiều cân nặng hơn so với bệnh nhân được điều trị bằng glimepiride. Trong khi nhóm bệnh nhân điều trị bằng insulin không có sự thay đổi về cân nặng.
- Tác động bất lợi và nguy cơ: Liraglutide có nhiều tác động bất lợi trên đường tiêu hóa hơn so với 3 nhóm điều trị còn lại. Biểu hiện thường gặp là buồn nôn, đau bụng và tiêu chảy. Glimepiride có liên quan đến nguy cơ hạ đường huyết cao hơn các nhóm điều trị khác.
- Lợi ích trên biến chứng: Dựa vào dữ liệu hiện có, liraglutide có thể có nhiều lợi ích hơn so với 3 nhóm thuốc còn lại về tiêu chí làm giảm các biến cố tim mạch. Tỷ lệ bệnh nhân mắc các biến cố tim mạch là 5.8% ở nhóm liraglutide, 7.6% ở nhóm insulin, 8.0% ở nhóm glimepiride và 8.6% ở nhóm sitagliptin. Tuy nhiên, đối với 2 kết cục chính trên tim mạch là biến cố tim mạch chính (MACE) và nhập viện vì suy tim, liraglutide mang lại nhiều lợi ích nhưng lại không có ý nghĩa.
Bàn luận
GRADE hỗ trợ việc lựa chọn các liệu pháp điều trị tốt nhất cho bệnh nhân trong thực hành lâm sàng. Tuy nhiên, điều trị đái tháo đường không chỉ đến từ một hướng tiếp cận. Nghiên cứu này có thể cung cấp cơ sở cho cả bệnh nhân và bác sĩ điều trị trong việc đưa ra quyết định điều trị trong lâm sàng.
Tài liệu tham khảo
- American diabetes association 81st Scientific sessions Press release. Liraglutide and Insulin More Effective in Maintaining Average Blood Glucose Levels Than Other Common Diabetes Drugs. American diabetes association. Update: 28 June 2021. Accessed date: 01 July 2021. URL: https://www.diabetes.org/newsroom/press-releases/2021/liraglutide-insulin-more-effective-in-maintaining-average-blood-glucose-levels-than-other-common-diabetes-drugs
- Mitchel. What's Best for Diabetes After Metformin? GRADE Outdated at Outset. Medscape. Update 30 June 2021. Accessed date: 01 July 2021. URL: https://www.medscape.com/viewarticle/954008#vp_1