Hội chứng quai tới (Afferent Loop Syndrome)

 ALS là một biến chứng cơ học xảy ra sau phẫu thuật cắt dạ dày nối vị tràng và chủ yếu là nối vị tràng kiểu Billroth II. Việc tạo ra đường  nối giữa dạ dày và taá tràng đã làm để lại một doạn ruột non bao gồm tá tràng và phần còn lại của hỗng tràng, nằm ngược chiêù với đoạn nối vị tràng. Đoạn ruột này dẫn dịch mật, dịch tụy về phía miệng nối dạ dày tá tràng nên được gọi là quai tới.



Quai tới bao gồm phần còn laị của tá tràng, phần xa của hỗng tràng và góc Treitz, đến miệng nối vị tràng. phần hỗng tràng có thể có thể bị dính, thoát vị, xoắn, tắc cơ học và một vài nguyên nhân khác.

Sinh lí bệnh

ALS có thể cấp tính hoặc mạn tính. ALS cấp được thấy là do sự tắc nghẽn hoàn toàn quai tới và cần phẫu thuật cấp cứu do đó yêu cầu phải chẩn đoán chính xác và kịp thời. ALS mạn tính thường do tắc nghẽn một  phần, không cần phẫu thuật cấp cứu nhưng cũng phải yêu cầu phẫu thuật lại.

Một quai ruột đến bao gồm đoạn còn lại của tá tràng, một đoạn hỗng tràng nằm gần miệng nối vị tràng kiểu Billroth II. ALS do tắc nghẽn hoàn toàn hay một phần ở ngay trước vị trí nối, tại vị trí nối hay bất kì vị trí nào dọc theo chiều dài đoạn hỗng tràng của quai đến và do để quai tới quá dài khiến thức thức ăn đổ dồn vào gây ứ đọng.

Sự di chuyển của thức ăn và dịch tiết dạ dày qua miệng nối vị tràng vào quai đi khởi động quá trình giải phòng secrectin và cholecystokinin. Những hormone này kích thích bài tiết dịch tụy, dịch mật và bicarbonate, nước vào trong lòng quai tới. Dưới sự tác động của các hormone tiêu hóa, 1-2 L dịch tụy và mật có thể vào quai tới mỗi ngày.

Triệu chứng ALS gây ra là do tăng áp lực trong lòng ruột và chướng do ứ dịch trong trường hợp tắc một phần hay hoàn toàn quai tới. ALS cũng là một trong những nguyên nhân chính bục đoạn còn lại của tá tràng ở giai đoạn sớm sau phẫu thuật và cũng là nguyên nhân gây vàng da sau phâũ thuật, viêm đường mật tiến triển, viêm tụy, giãn quai ruột, ngoài ra có thể dẫn đến thiếu máu, hoại tử rồi sau đó là viêm phúc mạc. Ngoài ra, ứ đọng kéo dài các chất tiết tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển trong quai tới, suy dinh dưỡng, thiếu hụt vitamin B12 gây thiếu máu hồng cầu to.

Nguyên nhân:

Sau phẫu thuật

- Dính sau mổ

- Thoát vị nội  (qua mạc treo đại tràng ngang)

- Xoắn ruột

- Lồng ruột

- Khối u gần miện nối

- Sỏi trong quai đến

- Dị vật trong quai đến

Do phương pháp phẫu thuật

   Bệnh nhân có nguy cơ cao mắc ALS nếu

- Phần hỗng tràng của quai tới quá dài ( > 30-40cm) 

- Vị trí miệng nối đặt ở vị trí antercolic thay vì retrocolic

Triệu chứng lâm sàng:

- Cơ năng

+) ALS cấp: do tắc nghẽn hoàn toàn của quai tới, có thể nhưng hiếm khi xảy ra  vài ngày ngay sau mổ nối vị tràng Billroth II và có khi là một vài năm. Trong cả hai trường hợp này, nguyên nhân có thể là do xoắn, thoát vị ruột. Bệnh nhân đau thượng vị, vùng hạ sườn trái hoặc hạ sườn phải hoặc cả hai bên cùng với nôn. Nôn trong ALS cấp không có dịch mật vì dịch mật và dịch tụy trong lòng quai tới bị chặn lại ở vị trí tắc. Nếu quai tới không được giải phóng, bệnh nhân trở nên trầm trọng hơn và thể dẫn đến các triệu chứng của viêm phúc mạc hay sốc nếu thủng ruột hay nhồi máu xảy ra

+ ALS mạn: do có nguyên nhân là tắc nghẽn một phần của quai đến và chẩn đoán có thể khó hơn ALS cấp. Khoảng  10-20 phút đến 1h sau bữa ăn, bệnh nhân cảm thấy đầy bụng và đau thượng vị, đau hạ sườn phải. Triệu chứng thường kéo dài từ vài phút đến  giờ, ghi nhận có trường hợp kéo dài vài ngày. Quai đến sau đó giãn to để giải áp đồng thời làm cho triệu chứng giảm đi nhanh chóng. Nôn trong ALS mạn có dịch mật là dấu hiệu điển hình của ALS tắc nghẽn một phần, nôn xảy ra sau bữa ăn, nôn không có thức ăn, nôn được thì nhẹ. Ngoài ra, có thể tiêu chạy do ứ đọng lâu làm vi khuẩn phát triển.

- Thực thể:

.  Khối không rõ ở 1/4 trên  phải (thấy ở 1/3 bệnh nhân).

. Vàng dạ

.  Thiếu máu

.  Triệu chứng của viêm tụy cấp

.  Cảm ứng phúc mạc và bụng cứng như gỗ trong TH viêm phúc mạc.

- Cận lâm sàng

. X-quang: quai ruột tới giãn và có ứ đọng thuốc ở đó.

. Hóa sinh máu : billirubin, ALP. AST, ALT, Amylase, Lipase tăng trong trường hợp có tắc đường mật và ống tụy




Điều trị

Điều trị nội khoa không có vai trò và trước khi phẫu thuật:

Đặt sone dạ dày để làm giảm triệu chứng.

• Điều trị phẫu thuật: có nhiều phương pháp được nhắc đến nhưng 2 phương pháp chính là :

- Làm thêm miệng nối Braun ( nối quai tới vài quai đi)

- Phẫu thuật lại nối vị tràng chuyển từ Billroth II thành phẫu thuật theo phương pháp Roux-en-Y

• Chỉ định:

- Được chỉ định trong hầu hết các chẩn đoán ALS. Vì hội chứng này là một biến chứng cơ học với các mức độ tắc nghẽn khác nhau vì vậy sẽ không thể giải quyết nếu không can thiệp phẫu thuật hay các kĩ thuật khác. 

• Chống chỉ định:

- Không có chống chỉ định tuyệt đối.

- CCĐ tương đối khi bệnh nhân suy nhược nặng hay khối u ác tính to trong ổ bụng.

Sau phẫu thuật:

- Hoạt động sớm, nhẹ nhàng như di chuyển từ ghế ra giường và ngược lại.

- Ăn lỏng, 5-6 bữa/ ngày, sau đó ổn định giảm bữa và tăng khẩu phần ăn, bổ sung thêm vitamin và sắt.

Nguồn: Medscape



About the author

TBFTTH
Cuộc đời thì ngắn, mà nghề thì miên man;cơn bệnh phập phù;kinh nghiệm hiểm nguy, còn quyết định thì thật khó.Người thầy thuốc không phải chỉ chuẩn bị để tự mình làm đúng, mà còn khiến cho bệnh nhân, người đi theo và các yếu tố xung quanh hợp tác hài…

Đăng nhận xét