Bảng phân loại tình trạng sức khỏe của Hiệp hội gây mê hồi sức Hoa Kỳ đã được sửa đổi vào ngày 13 tháng 12 năm 2020

 “Bảng phân loại tình trạng sức khỏe của Hiệp hội gây mê hồi sức Hoa Kỳ” đã được sửa đổi vào ngày 13 tháng 12 năm 2020 (phê duyệt ban đầu: ngày 15 tháng 10 năm 2014), và hiện bao gồm các ví dụ về sản khoa và nhi khoa. Kể từ khi được giới thiệu vào năm 1941, nó đã trải qua rất ít sửa đổi để cải thiện độ tin cậy và loại bỏ tính chủ quan, bất chấp những thay đổi lớn trong cả kỹ thuật phẫu thuật và gây mê.

ĐÁNH GIÁ & PHÂN LOẠI TÌNH TRẠNG SỨC KHỎE BỆNH NHÂN TRƯỚC MỔ THEO ASA HIỆN NAY

Bảng phân loại tình trạng sức khỏe của Hiệp hội bác sĩ gây mê Hoa Kỳ (American Society of Anaesthesiologists physical status, ASA PS) đã được đưa vào thực hành lâm sàng cách đây hơn 70 năm. Hiện ASA vẫn được sử dụng rộng rãi để đánh giá tình trạng sức khỏe của bệnh nhân trước khi gây mê và phẫu thuật. 

LỊCH SỬ

Năm 1941, Hiệp hội Bác sĩ gây mê Hoa Kỳ (ASA) đã xuất bản một cuốn sách nhỏ cho các thành viên của mình bao gồm phiên bản đầu tiên của phân loại tình trạng sức khỏe cho bệnh nhân sắp trải qua phẫu thuật.

Hệ thống phân loại tình trạng sức khỏe của Hiệp hội Gây mê Hoa Kỳ (ASAPS) cung cấp cho các bác sĩ lâm sàng một phân loại đơn giản về tình trạng sức khỏe của bệnh nhân, có thể hữu ích trong việc dự đoán nguy cơ phẫu thuật. ASAPS khởi đầu từ năm 1941, và đã trải qua một số sửa đổi kể từ thời điểm đó đến nay. 

CHỨC NĂNG

Các Bs gây mê sử dụng hệ thống thang điểm này để cho biết sức khỏe bệnh nhân trước phẫu thuật nhằm giúp quyết định xem bệnh nhân có nên phẫu thuật hay không. Để dự đoán nguy cơ phẫu thuật, các yếu tố khác cần xem xét bao gồm:

Tuổi

Bệnh lý kèm theo

Mức độ và thời gian của thủ thuật phẫu thuật

Kế hoạch và kỹ thuật gây mê.

Kỹ năng của đội phẫu thuật

Thời gian phẫu thuật

Thiết bị có sẵn

Các sản phẩm máu cần thiết

Thuốc

Cấy ghép cần thiết

Chăm sóc hậu phẫu dự kiến

Ý NGHĨA LÂM SÀNG

ASAPS ghi nhận trên một bệnh nhân cụ thể không thể đóng vai trò là chỉ số trực tiếp về nguy cơ phẫu thuật, vì (ví dụ) nguy cơ phẫu thuật cho bệnh nhân có nguy cơ cao được phẫu thuật đục thủy tinh thể dưới gây tê tại chỗ khá khác so với nguy cơ phẫu thuật cho cùng một bệnh nhân được phẫu thuật cắt bỏ thực quản hoặc phẫu thuật tim. Ngoài ra, vì ASAPS cho một bệnh nhân cụ thể dựa trên mức độ bệnh toàn thân của họ (theo đánh giá bệnh sử nội khoa của bệnh nhân, mức độ giới hạn chức năng của bệnh nhân, v.v.), về mặt khác, các vấn đề về thể chất như sự hiện diện của đường thở khó, hội chứng Mendelson, chảy máu trong mổ và độ phức tạp của ca mổ, hoặc luật cấm truyền máu trên lâm sàng cho những bệnh nhân theo một số tôn giáo không ảnh hưởng đến ASAPS, nhưng chắc chắn sẽ ảnh hưởng mạnh đến nguy cơ phẫu thuật của bệnh nhân. Những yếu tố này có thể làm tăng đáng kể tỷ lệ mắc bệnh và tử vong chu phẫu.

Người ta đã chứng minh rằng các bác sĩ gây mê đôi khi thay đổi đáng kể trong phân loại ASAPS được chỉ định cho bệnh nhân, đặc biệt là ảnh hưởng của các yếu tố như tuổi tác, thiếu máu, béo phì và với những bệnh nhân đã hồi phục sau nhồi máu cơ tim. 

Cuối cùng, cần lưu ý rằng hệ thống phân loại ASAPS mặc nhiên cho rằng tuổi tác không liên quan đến thể lực sinh lý, một giả định đơn giản không đúng vì trẻ sơ sinh và người già, ngay cả khi không có bệnh, cũng dễ bị tổn thương hơn về khả năng gây mê so với người trẻ tuổi. Tuy nhiên, mặc dù có những hạn chế khác, phân loại ASAPS được sử dụng phổ biến (mặc dù đôi khi không chính xác) trong việc cung cấp mô tả thuận tiện về tình trạng chung của bệnh nhân phẫu thuật.

Phiên bản mới nhất của hệ thống phân loại tình trạng sức khỏe của Hiệp hội Bác sĩ gây mê Hoa Kỳ được sửa đổi vào ngày 13 tháng 12 năm 2020 (phê duyệt ban đầu: ngày 15 tháng 10 năm 2014)Lưu ý rằng không có phân loại cụ thể cho bệnh nhân mắc bệnh toàn thân vừa phải, chỉ phân loại cho bệnh nhân mắc bệnh toàn thân nhẹ (ASA 2) và những người mắc bệnh toàn thân nặng (ASA 3).

BẢNG PHÂN LOẠI ASA HIỆN NAY



ASA I: Bệnh nhân có sức khỏe bình thường. Vd: Mạnh khỏe, không béo phì (BMI < 30), không hút thuốc lá. Không uống hoặc uống rượu rất ít.

ASA II: Các bệnh nhẹ không có giới hạn chức năng cơ bản. Người hút thuốc lá, uống rượu thường xuyên, mang thai, béo phì (30 <BMI <40), đái tháo đường hoặc tăng huyết áp được kiểm soát tốt, bệnh phổi nhẹ

ASA III: Những hạn chế về mặt chức năng cơ bản; Một hoặc nhiều bệnh từ trung bình đến nặng. Đái tháo đường hoặc tăng huyết áp kiểm soát kém, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, bệnh lý béo phì (BMI ≥40), viêm gan đang hoạt động, nghiện rượu hoặc lạm dụng, đặt máy tạo nhịp tim, phân suất tống máu giảm vừa phải, bệnh thận giai đoạn cuối đang chạy thận định kỳ theo lịch trình, tiền sử (> 3 tháng) nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua hoặc bệnh mạch vành / đặt stent. 

ASA IV: Nhồi máu cơ tim gần đây dưới ba tháng, tai biến mạch máu não, cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua hoặc bệnh mạch vành / đặt stent, bệnh tim thiếu máu cục bộ, hoặc bệnh van tim nặng, giảm phân suất tống máu nặng, sốc, nhiễm trùng huyết, đông máu nội mạch lan tỏa, hội chứng suy hô hấp cấp hoặc bệnh thận giai đoạn cuối không được lọc máu định kỳ thường xuyên.

ASA V: Phình mạch bụng / lồng ngực bị vỡ, chấn thương lớn, chảy máu nội sọ với khối lượng lớn, thiếu máu cục bộ ở ruột khi đối mặt với bệnh lý tim nghiêm trọng hoặc rối loạn chức năng đa cơ quan / hệ thống

ASA VI: Bệnh nhân chết não hiến tạng cho mục đích cấy ghép.

Việc thêm "E" vào ASAPS (ví dụ: ASA 2E) có nghĩa là phẫu thuật cấp cứu. ASA định nghĩa một trường hợp cấp cứu là  "khi sự chậm trễ trong điều trị bệnh nhân sẽ dẫn đến sự gia tăng đáng kể mối đe dọa tính mạng hoặc một bộ phận cơ thể.

Các yếu tố khác ảnh hưởng đến quan điểm của phân loại ASA PS 

Phiên bản hiện tại của ASA PS không cung cấp cụ thể định nghĩa các ví dụ về ‘tình trạng không khỏe cho mỗi phân loại. Một nhóm các bác sĩ gây mê có thể gán cho phân loại tình trạng sức khỏe khác nhau cho cùng một bệnh nhân; đây là một vấn đề ai cũng biết khi ASA PS là một phần của dữ liệu tiêu chuẩn hóa cho một nghiên cứu. Một số bác sĩ gây mê sẽ phân loại một bệnh nhân với dạng nhẹ hoặc bệnh toàn thân được kiểm soát tốt là ASA 2, trong khi các bác sĩ gây mê khác sẽ thêm vào ảnh hưởng về thể chất của những căn bệnh đó và phân loại bệnh nhân đó là ASA 3.

Ngoài ra, bác sĩ gây mê cũng sẽ tính đến các yếu tố không thuộc tình trạng nội khoa theo cách riêng của họ nhưng ảnh hưởng xấu đến cách bệnh nhân sẽ chịu đựng một bệnh toàn thân hoặc thủ thuật phẫu thuật. Phổ biến nhất trong số này là  thái cực của tuổi tác (trẻ sơ sinh và tuổi trên 80) - nhiều bác sĩ gây mê sẽ xếp người 80 tuổi thuộc ASA 3. Các yếu tố ảnh hưởng khác là béo phì và bệnh sử hút thuốc lá. 

Tóm lại, mặc dù là một phần quan trọng của thực hành lâm sàng trong hơn 7 thập kỷ, hệ thống phân loại tình trạng sức khỏe của Hiệp hội các bác sĩ gây mê Hoa Kỳ (ASA) đôi khi bị chỉ trích vì tính chất chủ quan của nó, và có thể dẫn đến sự phân loại không nhất quán giữa các bác sĩ gây mê.

Vấn đề này có thể được cải thiện với việc sử dụng các ví dụ cụ thể trong phân loại ASA mới hiện nay, giúp các bác sĩ gây mê về cơ bản tăng khả năng xác định đúng loại ASA.


Tài liệu tham khảo

1. Daniel John Doyle ; Amandeep Goyal ; Pankaj Bansal ; Emily H. Garmon. American Society of Anesthesiologists Classification (ASA Class). Last Update: December 13, 2020.

2. D. Mayhew, V. Mendonca and B. V. S. Murthy. A review of ASA physical status – historical perspectives and modern developments. Anaesthesia 2019, 74, 373–379

3. De Cassai A, Boscolo A, Tonetti T, Ban I, Ori C. Assignment of ASA-physical status relates to anesthesiologists' experience: a survey-based national-study. Korean J Anesthesiol. 2019 Feb;72(1):53-59.


About the author

TBFTTH
Cuộc đời thì ngắn, mà nghề thì miên man;cơn bệnh phập phù;kinh nghiệm hiểm nguy, còn quyết định thì thật khó.Người thầy thuốc không phải chỉ chuẩn bị để tự mình làm đúng, mà còn khiến cho bệnh nhân, người đi theo và các yếu tố xung quanh hợp tác hài…

Đăng nhận xét