Năm 2016, tỷ lệ ngừng tim ngoại viện ở Hoa Kỳ (OHCA) khoảng 360.000 và 209.000 đối với ngừng tim ở bệnh viện (IHCA) (Mozaffarian 2016). Mặc dù tỷ lệ sống sót tương đối thấp, ngừng tim ở bệnh nhân rung thất hay VT có tỷ lệ tái tuần hoàn tự nhiên tốt hơn (ROSC). Trong khi khử rung tim có thể có hiệu quả trong việc chấm dứt VF / VT, khử rung tim không ngăn được sự tái phát của VF / VT. Theo hướng dẫn ACLS, amiodarone vẫn là thuốc đầu tay được khuyến cáo cho VF/VT kháng sốc điện. Những khuyến cáo này bắt nguồn từ hai nghiên cứu cho thấy tăng tỷ lệ ROSC và tỷ lệ sống sót sau khi dùng amiodarone (Dorian 2002, Kudenchuk 1999). Tuy nhiên, ROSC không thể đại diện cho điều gì đó có ý nghĩa lâm sàng. Các nghiên cứu tiếp theo đã đặt câu hỏi về lợi ích của amiodarone trong ngừng tim do quan điểm cải thiện khả năng sống sót đối với việc xuất viện hoặc sống sót ít để lại di chứng thần kinh
Laina et al. Amiodarone and Cardiac Arrest: Systematic review and Meta-Analysis. Int J Cardiol. 2016; 221: 780-788. PMID: 27434349
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/27434349
Đặt vấn đề:
Amiodarone ảnh hưởng thế nào đến ROSC, tỷ lệ sống sót và di chứng thần kinh sau ngừng tim?
Phương pháp:
Đánh giá kết quả: ROSC, tỷ lệ sống sót tại viện, khi xuất viện, di chứng thần kinh, so sánh amiodarone với giả dược hoặc thuốc chống loạn nhịp lidocain hoặc nifekalant
Các nghiên cứu được lựa chọn thông qua tài liệu MEDLINE qua PUBMED và Thư viện Cochrane. Sử dụng thuật ngữ “để tìm các nghiên cứu thích hợp. Các nghiên cứu bao gồm các nghiên cứu ngẫu nhiên hoặc quan sát thấy về bản chất của người lớn cardiopulmonary resuscitation”, “cardio-pulmonary resuscitation”, “CPR”, “ventricular fibrillation”, “pulseless ventricular tachycardia”, “pulseless electrical activity”, “death, sudden”, “heart arrest, induced”, “amiodarone”, “cordarone”, “pacerone”, “nexterone” và “angoron” hoặc OHCA hoặc IHCA.
Thiết kế: nghiên cứu hệ thống và phân tích
Loại trừ: Tất cả các nghiên cứu không đáp ứng liệt kê ở trên đều bị loại trừ.
Thu thập dữ liệu: Trích xuất dữ liệu về đặc điểm nghiên cứu, đặc điểm của người tham gia và kết quả sau: (1) ROSC (2) sống sót khi nhập viện (3) sống sót đến 24 giờ (4) sống sót khi xuất viện (5) di chứng thần kinh.
Kết quả: Đánh giá hiệu quả của amiodarone so với các phác đồ điều trị thay thế (lidocaine, nifekalant hoặc giả dược) trên các yếu tố: (1) ROSC (2) sống sót khi nhập viện (3) sống sót đến 24 giờ (4) sống sót khi xuất viện ) di chứng thần kinh.
Các kết quả:
Ban đầu đã xác định được 1663 nghiên cứu, trong số những nghiên cứu đó có 10 nghiên cứu đủ tiêu chuẩn
4 nghiên cứu ngẫu nhiên (3 mù đôi, 1 có đối chứng)
6 nghiên cứu hồi cứu
7 nghiên cứu đánh giá OHCA, 3 nghiên cứu đánh giá IHCA
Tổng cộng 5,326 bệnh nhân (2.162 người dùng amiodaron, 1422 dùng giả dược, 1666 dùng lidocain và 76 người dùng nifekalant)
Cỡ mẫu dao động từ 25 đến 3.026 bệnh nhân
Kết quả quan trọng:
Đánh giá hiệu quả của amiodarone so với các phương pháp điều trị thay thế (giả dược hoặc các thuốc loạn nhịp khác) trên 5 kết cục sau:
Ưu điểm:
Cỡ mẫu lớn
Bao gồm 4 thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên và 6 nghiên cứu mô tả
Đánh giá kết quả theo tỷ lệ sống sót khi đến viện và sau xuất viện, di chứng thần kinh
Hạn chế:
Phần lớn các nghiên cứu (6 trong số 10) là hồi cứu. Do thiết kế của các nghiên cứu như vậy, nên không thể đánh giá khách quan. Chỉ 3 nghiên cứu mù đôi và ít chủ quan
Nghiên cứu đánh giá hiệu quả của amiodarone trên di chứng thần kinh (4/10 nghiên cứu) và sống sót ở thời điểm 24 giờ (3/10 nghiên cứu)
Tác giả Kết luận:
“Amiodaron tăng đáng kể tỷ lệ sống sót khi nhập viện nhưng không cải thiện tỷ lệ sống sót để xuất hiện hoặc di chứng thần kinh so với giả dược hoặc thuốc chống loạn nhịp khác “.
Kết luận của chúng tôi:
Các hội nên cân nhắc loại amiodarone khỏi thuật toán ngừng tim ngừng thở và tập trung vào những can thiệp có khả năng cải thiện tỷ lệ sống sót như cpr hay sốc điện
Dựa trên các bằng chứng hiện có, amiodarone dường như không liên quan đến bất kỳ kết cục lâm sàng nào có thể xảy ra khi ngừng tim, bao gồm di chứng thần kinh hoặc tử vong tại viện.