Hiệu lực và an toàn của thuốc giãn cơ trong điều trị đau vùng thắt lưng

 

ĐIỂM CHÍNH

Những điểm đã biết về chủ đề thuốc giãn cơ trong điều trị đau vùng thắt lưng bao gồm:

  • Thuốc giãn cơ là thuốc được kê đơn phổ biến thứ 3 để điều trị đau vùng thắt lưng
  • Các hướng dẫn điều trị cho thấy nhiều khuyến cáo mâu thuẫn về vấn đề lựa chọn thuốc giãn cơ trong điều trị đau vùng thắt lưng

Những giá trị nghiên cứu mang lại:

  • Bằng chứng mức độ rất thấp cho thấy antispasmodic non – benzodiazepine có thể có lợi ích nhỏ, không có ý nghĩa lâm sàng trong việc làm giảm cường độ đau tại thời điểm ≤ 2 tuần ở bệnh nhân đau vùng thắt lưng cấp tính
  • Bằng chứng mức độ thấp và rất thấp cho thấy antispasmodic non – benzodiazepine có thể làm tăng nguy cơ gặp các biến cố có hại, có thể có ít hoặc không có tác động đến việc ngưng thuốc so với nhóm chứng
  • Nghiên cứu thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng với giả dược có cỡ mẫu lớn là cần thiết để làm sáng tỏ những điểm chưa chắc chắn trong nghiên cứu về việc kê đơn thuốc giãn cơ trong điều trị đau vùng thắt lưng

MỞ ĐẦU

Đau vùng thắt lưng và vấn đề sức khỏe trên toàn cầu. Đau vùng thắt lưng là nguyên nhân thường gặp ở bệnh nhân khi đến khám ở các phòng khám của bác sĩ đa khoa. Bệnh nhân thường được kê thuốc giảm đau để kiểm soát cơn đau. Thuốc giãn cơ cũng được kê đơn rộng rãi (đứng thứ 3) khi điều trị cho bệnh nhân bị đau vùng thắt lưng.1 Thuốc giãn cơ được khuyến cáo trong một số hướng dẫn điều trị, tuy nhiên khuyến cáo trong các hướng dẫn này lại không đồng thuận, ví dụ hướng dẫn điều trị ở Hoa Kỳ2 khuyến cáo antispasmodic non benzodiazepine như một lựa chọn trong điều trị đau thắt lưng cấp, nhưng khuyến cáo của Anh3 lại không đưa ra khuyến cáo về vấn đề này. Tổng quan về các nhóm thuốc giãn cơ được tóm tắt trong bảng 1 bên dưới.

Bảng 1. Tổng quan thuốc giãn cơ trong điều trị đau vùng thắt lưng


Nghiên cứu tổng quan hệ thống bao gồm 5 thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng đã cho thấy bằng chứng làm giảm đau có ý nghĩa trên lâm sàng ở bệnh nhân bị đau lưng của thuốc giãn cơ. Để làm rõ thêm vấn đề này, nghiên cứu tổng quan hệ hệ thống và phân tích gộp về hiệu lực và tính an toàn của thuốc giãn cơ ở bệnh nhân đau lưng đã được tiến hành. Nghiên cứu đánh giá mức độ tin cậy của bằng chứng bằng các khuyến cáo dựa theo phân độ sự đánh giá, phát triển và lượng giá các khuyến cáo (GRADE - Grading of Recommendations, Assessment, Development and Evaluations) để bàn luận sự phù hợp của nhóm thuốc này trong thực hành lâm sàng.1

Đội ngũ chúng tôi tóm tắt nghiên cứu này nhằm cung cấp thêm bằng chứng về việc sử dụng thuốc giãn cơ trong thực hành lâm sàng.

PHƯƠNG PHÁP

Tiêu chí chọn

Nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích gộp bao gồm các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng thỏa mãn các tiêu chí sau:

  • Đối tượng nghiên cứu ≥ 18 tuổi bị đau vùng thắt lưng và được điều trị bằng thuốc giãn cơ, nhóm bệnh nhân này được so sánh với nhóm đối chứng (placebo)
  • Các nghiên cứu bao gồm thử nghiêm ngẫu nhiên có đối chứng so sánh chế độ điều trị phối hợp 2 thuốc và đơn trị

Kết cục trên lâm sàng

Kết cục chính

  • Cường độ đau
  • Sự hài lòng của bệnh nhân

Kết cục phụ

  • Biến cố có hại của thuốc
  • Biến cố có hại nghiêm trọng
  • Ngưng thuốc vì các biến cố có hại

KẾT QUẢ

Có 49 nghiên cứu được lựa chọn trong nghiên cứu tổng quan hệ thống và 31 nghiên cứu (với tổng cộng 6505 bệnh nhân) được lựa chọn để tiến hành phân tích gộp. Có tổng cộng 18 thuốc giãn cơ khác nhau được sử dụng trong các nghiên cứu này, trong đó đa số là antispasmodic non – benzodiazepine, đa số nghiên cứu dùng thuốc đường uống, một số nghiên cứu dùng thuốc đường tiêm hoặc phối hợp cả 2 đường dùng.1


Hiệu lực và mức độ hài lòng của bệnh nhân

Đau vùng thắt lưng cấp: 17 thử nghiệm đánh giá hiệu lực của thuốc giãn cơ trong điều trị đau vùng thắt lưng cấp tại thời điểm ≤ 2 tuần, 4 thử nghiệm đánh giá trong thời gian theo dõi 3 – 13 tuần và có 13 thử nghiệm đánh giá sự hài lòng của bệnh nhân bị đau vùng thắt lưng cấp khi được điều trị bằng thuốc giãn cơ. Kết quả cho thấy antispasmodic non – benzodiazepine làm giảm cường độ đau so với nhóm chứng (tại thời điểm 2 tuần), tuy nhiên trong thời gian theo dõi (3 – 13 tuần), thuốc dãn cơ không làm giảm cường độ đau ở bệnh nhân khi so với nhóm chứng. Về mức độ hài lòng của bệnh nhân, không có sự khác biệt giữa nhóm được điều trị bằng thuốc giãn cơ và nhóm chứng.

Mức độ bằng chứng từ trung bình – thấp cho thấy antispastic và benzodiazepine không mang lại lợi ích cho bệnh nhân về khía cạnh giảm cường độ đau và mức độ hài lòng của bệnh nhân khi so sánh với nhóm chứng ở cả thời điểm ≤ 2 tuần và trong thời gian theo dõi (3 – 13 tuần).

Đau vùng thắt lưng bán cấp: 1 thử nghiệm xác định hiệu quả của thuốc giãn cơ đối với việc làm giảm cường độ đau trong thời gian ngắn theo dõi. Trong khi đó botulinum toxin không làm giảm cường độ đau ở bệnh nhân khi so sánh với nhóm chứng.

Đau vùng thắt lưng mạn tính: 2 thử nghiệm xác định hiệu lực của thuốc giãn cơ trong việc làm giảm cường độ đau trong thời gian ngắn ở bệnh nhân đau vùng thắt lưng mạn tính. 3 thử nghiệm xác định mức độ hài lòng của bệnh nhân khi được điều trị bằng thuốc giãn cơ. Bằng chứng với mức độ tin cậy rất thấp cho thấy nhóm thuốc antispastic và các thuốc giãn cơ khác không có lợi ích làm giảm đau và cải thiện mức độ hài lòng của bệnh nhân khi so sánh với nhóm chứng, ngoại trừ eszopiclone làm giảm cường độ đau ở bệnh nhân trong thời gian 3 – 13 tuần khi so sánh với nhóm chứng.1

Đau vùng thắt lưng hỗn hợp: antispasmodic non – benzodiazepine liên quan đến việc làm giảm cường độ đau (≤ 2 tuần) so với nhóm chứng, nhưng không làm giảm đau trong 3 – 13 tuần.

An toàn

Đau vùng thắt lưng cấp: antispasmodic non – benzodiazepine làm tăng nguy cơ gặp các biến cố có hại so với nhóm chứng. Bệnh nhân được điều trị bằng thuốc antispastic có xu hướng ngưng điều trị vì biến cố có hại, trong khi nhóm bệnh nhân được điều trị bằng antispasmodic non – benzodiazepine thì không.

Đau vùng thắt lưng mạn tính: Không có sự khác biệt về tần suất gặp biến cố có hại ở bệnh nhân điều trị bằng antispasmodic non – benzodiazepine và bệnh nhân nhóm chứng.

Đau vùng thắt lưng hỗn hợp: Kết quả ở nhóm bệnh nhân này tương tự với nhom bệnh nhân bị đau vùng thắt lưng mạn tính.1

BÀN LUẬN

Nghiên cứu cho thấy bằng chứng mức độ rất thấp về việc antispasmodic non – benzodiazepine có thể làm giảm cường độ đau ở bệnh nhân bị đau vùng thắt lưng cấp tính tại thời điểm 2 tuần hoặc ít hơn. Tác dụng này không đáng kể và không có ý nghĩa về mặt lâm sàng (< 8 điểm trên thang điểm 0 – 100). Antispasmodic non – benzodiazepine có thể không có lợi ích giảm đau ở bệnh nhân trong thời gian dài theo dõi ( 3 – 13 tuần). Tuy nhiên, mức độ chắc chắn của bằng chứng chỉ ở mức trung bình – thấp.

Bằng chứng mức độ thấp và rất thấp cho thấy antispasmodic non – benzodiazepine có thể làm tăng nguy cơ gặp các biến cố có hại.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Aidan G Cashin, Thiago Folly et al. Efficacy, acceptability, and safety of muscle relaxants for adults with non-specific low back pain: systematic review and meta-analysis. BMJ 2021;374:n1446. DOI: 10.1136/bmj.n1446
  2. Qaseem A, Wilt TJ, McLean RM, Forciea MA, Clinical Guidelines Committee of the American College of Physicians. Noninvasive Treatments for Acute, Subacute, and Chronic Low Back Pain: A Clinical Practice Guideline From the American College of Physicians. Ann Intern Med2017;166:514-30. doi:10.7326/M16-2367.
  3. National Institute for Health and Care Excellence. Low Back Pain and Sciatica in Over 16s: Assessment and Management. NICE, 2016. https://www.nice.org.uk/guidance/ng59

Cuộc đời thì ngắn, mà nghề thì miên man; cơn bệnh phập phù; kinh nghiệm hiểm nguy, còn quyết định thì thật khó. Người thầy thuốc không phải chỉ chuẩn bị để tự mình làm đúng, mà còn khiến cho bệnh nhân, người đi theo và các yếu tố xung quanh hợp tác hài hòa.

Tham gia Group Telegram và Zalo cùng chúng tôi để nhận thông báo mới nhất cũng như giao lưu - chia sẻ nhé

Icons with Group Links
Telegram
Zalo

About the author

TBFTTH
Cuộc đời thì ngắn, mà nghề thì miên man;cơn bệnh phập phù;kinh nghiệm hiểm nguy, còn quyết định thì thật khó.Người thầy thuốc không phải chỉ chuẩn bị để tự mình làm đúng, mà còn khiến cho bệnh nhân, người đi theo và các yếu tố xung quanh hợp tác hài…

Đăng nhận xét