MỞ ĐẦU
Bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn (septic shock) cần được điều trị bằng các tác nhân vận mạch để điều chỉnh huyết áp và giải quyết tình trạng nhiễm toan lactic do nhiễm trùng. Có tới 30 – 40% trường hợp sốc nhiễm khuẩn bị tử vong. Bác sĩ cần đưa ra nhiều quyết định điều trị khi kiểm soát bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn, bao gồm lựa chọn thuốc vận mạch và các biện pháp điều trị bổ trợ.
Bài viết này hỗ trợ độc giả trả lời cho câu hỏi “làm thế nào” bằng những ví dụ thực tế trong việc đưa ra lựa chọn thuốc vận mạch đầu tay, đưa ra huyết áp đích, đường dùng của thuốc vận mạch, lựa chọn thuốc vận mạch hàng 2 và các thuốc điều trị bổ trợ. Bài viết được chia làm 2 phần, phần 1 giải đáp những thắc mắc về việc lựa chọn các thuốc vận mạch, corticosteroid và các biện pháp điều trị bổ trợ. Phần 2 bàn luận về thời điểm ngưng lên thang thuốc vận mạch, cách xuống thang thuốc vận mạch và xử trí bệnh nhân sốc dai dẳng và khó trị.
VÍ DỤ 1
Bệnh nhân nữ, 65 tuổi tiền căn rung nhĩ nhập khoa cấp cứu do tình trạng sốt và bí tiểu. Huyết áp ban đầu của bệnh nhân là 75/40 mmHg (huyết áp trung bình 52 mmHg), tần số tim 95 nhịp/phút, độ bão hòa oxy máu 92%. Tứ chi ấm và được tưới máu tốt. Bệnh nhân được truyền dịch Ringer’s lactate cho đến khi không còn đáp ứng bù dịch. Huyết áp của bệnh nhân vẫn ở mức thấp (82/45 mmHg). Lactate huyết thanh là 2.5 g/l. Kết quả siêu âm tim thấy chức năng hai tâm thất giảm trung bình và chức năng tâm thu rối loạn mức độ 1 (không thay đổi so với đánh giá trước đó). Sau khi hội chẩn và có sự đồng ý từ bệnh nhân, norepinephrine qua catheter tĩnh mạch ngoại biên được lựa chọn, đồng thời bệnh nhân được chuyển đến khoa chăm sóc tích cực.
Liệu có trường hợp ngoại lệ cho lựa chọn đầu tay norepinephrine?
Trong điều trị sốc nhiễm khuẩn, lựa chọn đầu tay thay thế cho norepinephrine hiếm khi được đưa ra. Đối với bệnh nhân có nguy cơ/hoặc đã được chẩn đoán mắc rung nhĩ hoặc các tình trạng loạn nhịp trên thất và được cho là kém dung nạp đáp ứng thất nhanh (chẳng hạn như bệnh nhân dự trữ tim kém), vasopressin hoặc phenylephrine được cân nhắc lựa chọn làm thuốc vận mạch khởi đầu thay vì norepinephrine.
Norepinephrine được khuyến cáo là thuốc vận mạch đầu tay trong điều trị sốc nhiễm khuẩn trong hàng thập kỷ. Khuyến cáo này được đưa ra dựa trên kết quả của những thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, so sánh giữa norepinephrine (cơ chế chủ vận chủ yếu trên α1 và đồng thời trên β1) và các thuốc vận mạch khác với cơ chế hoạt động khác (vasopressin, phenylephrine, dopamine và epinephrine)1. Có một thử nghiệm cho thấy norepinephrine có nguy cơ gây loạn nhịp thấp hơn so với dopamine2, các thử nghiệm khác không cho thấy có sự khác biệt về tỷ lệ tử vong hoặc kết cục lâm sàng khác giữa norepinephrine và các thuốc vậ mạch khác ngoài dopamine1. Kể từ đó, các hướng dẫn lâm sàng cho rằng norepinephrine vượt trội hơn dopamine. Nhìn chung, khuyến cáo thuốc vận mạch đầu tay là norepinephrine, tuy nhiên, các tác nhân không chủ vận β1 (vasopressin hoặc phenylephrine) được cân nhắc lựa chọn thay vì norepinephrine khi nghi sẽ xảy ra các biến bố có hại liên quan đến tác động adrenergic của norepinephrine hoặc nghi sẽ xảy ra tình trạng mất bù lâm sàng. Cơ sở của lựa chọn này được đưa ra dựa trên kết quả của một số nghiên cứu cho thấy khởi đầu điều trị bằng phenylephrine có thể cải thiện nhẹ tần số tim so với norepinephrine ở bệnh nhân sốc nhiểm khuẩn mắc kèm rung nhĩ 3.
Sau khi khởi đầu điều trị bằng norepinephrine, nên đưa ra huyết áp trung bình mục tiêu nào?
Huyết áp trung bình mục tiêu thường được lựa chọn cho đa số bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn là 60 – 65 mmHg. Mức huyết áp này được đưa ra dựa trên dữ liệu cho thấy sự tự điều hòa của não bộ giảm đi nhanh chóng khi huyết áp trung bình < 60 mmHg. Những thử nghiệm lâm sàng gần đây cho thấy mục tiêu huyết áp trung bình > 65 mmHg ở bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn có thể gây hại, làm tăng nguy cơ nhanh nhịp trên thất và có thể gây tử vong4, 5.
Khi nào nên đặt catheter tĩnh mạch trung tâm cho thuốc vận mạch?
Đối với bệnh nhân được khởi đầu điều trị bằng norepinephrine liều thấp (< 15 µg/phút hoặc < 0.3 15 µg/kg/phút), norepinephrine bằng catheter tĩnh mạch ngoại biên thường được lựa chọn, sau đó loại catheter khác có thể được cân nhắc nếu cần thiết. Ở bệnh nhân cần được điều trị bằng epinephrine trong > 24 – 48 giờ nhưng với liều thấp và có huyết động ổn định, chuyển sang truyền bằng midline catheter thường được cân nhắc. Ở bệnh nhân không ổn định dai dẳng hoặc cần điều trị bằng norepinephrine liều cao hơn, bổ sung thuốc vận mạch khác hoặc bổ sung đường truyền khác, nên chuyển qua catheter truyền tĩnh mạch trung tâm.
Việc truyền thuốc vận mạch qua tĩnh mạch ngoại biên có < 5 % nguy cơ thoát mạch nếu truyền trong thời gian < 72 giờ mà không xảy ra tình trạng hoại tử mô hoặc thiếu máu cục bộ ở chi 6, 7. Hơn nữa, truyền thuốc tĩnh mạch qua đường ngoại biên có thể làm giảm thời gian sử dụng thuốc vận mạch so với catheter đường tĩnh mạch trung tâm [8]. Những dữ liệu này đã dẫn đến khuyến cáo yếu trong hướng dẫn Surviving Sepsis Campaign về việc khởi đầu thuốc vận mạch bằng đường ngoại biên để đạt huyết áp mục tiêu thay vì catheter tĩnh mạch trung tâm1.
Khi nào nên cân nhắc bổ sung thuốc vận mạch thứ hai
Thuốc vận mạch thứ 2 được cân nhắc ở bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn tăng nhu cầu điều trị bằng thuốc vận mạch (thường với liều norepinephrine tiệm cận 15 µg/phút). Nếu mục tiêu truyền không đạt với liều trung bình của thuốc vận mạch khởi đầu, việc quyết định bổ sung thuốc vận mạch khác hoặc tăng liều thuốc vận mạch hiện dùng cần được cân nhắc dựa trên việc cân bằng giữa lợi ích/nguy cơ. Hiện chưa có nhiều bằng chứng trực tiếp hướng dẫn việc bổ sung thuốc vận mạch thứ hai. Ở bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn, hướng dẫn hiện có đưa ra khuyến cáo yếu cho việc bổ sung vasopressin vào phác đồ điều trị với norepinephrine khi liều norepinephrine đạt 0.25 – 0.5 15 µg/kg/phút1.
Khi không thấy được đáp ứng – liều (sự thay đổi huyết áp và các biến chứng liên quan đến liều norepinephrine), quyết định về việc bổ sung thuốc vận mạch thứ 2 nên được đưa ra dựa trên các cân nhắc thực hành và các bằng chứng gián tiếp. Một số cân nhắc thực hành bao gồm tốc độ cần phải lên thang thuốc vận mạch và sự khả dụng của thuốc vậ mạch thứ 2; lên thang liều thuốc vận mạch khởi đầu ở bệnh nhân mất bù nhanh chóng không nên bị trì hoãn do chờ thuốc vận mạch thứ 2. Tuy nhiên, bác sĩ điều trị nên đưa ra kế hoạch cho việc bổ sung sớm thuốc vận mạch thứ 2 ở bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn có nhu cầu norepinephrine tăng.
Nên lựa chọn thuốc vận mạch thứ 2 nào?
Vasopressin thường là lựa chọn đầu tiên cho bệnh nhân cần được bổ sung thuốc vận mạch thứ 2. Việc đưa ra lựa chọn thuốc vận mạch thứ 2 nên dựa trên mục tiêu điều trị. Hướng dẫn điều trị hiện có khuyến nghị vasopressin như là lựa chọn nên được ưu tiên, vì có bằng chứng cho rằng vasopressin làm giảm nhu cầu lọc máu và giảm nguy cơ loạn nhịp9. Tuy nhiên, nếu loạn nhịp ít có khả năng xảy ra thì thiếu máu cục bộ ngón là vấn đề cần phải quan tâm, hoặc ở bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn nghĩ một phần do suy giảm cung lượng tim, thì epinephrine là thuốc vận mạch thứ 2 nên được lựa chọn. Tuy nhiên, bằng chứng hỗ trơ epinephrine lại không có nhiều.
Biện pháp điều trị bổ trợ nào nên được cân nhắc nếu tình trạng sốc trở nặng?
Corticosteroid (hydrocortisone đường tiêm tĩnh mạch 50 mg/q6h phối hợp với fludrocortison đường uống 50 µg trong 7 ngày mà không xuống thang) thường đươc lựa chọn cho bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn có nhu cầu lên thang thuốc vận mạch (thường đã được bổ sung thuốc vận mạch thứ 2). Phác đồ điều trị bằng nhiều tác nhân được cân nhắc để cải thiện huyết động ở bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn. Những tác nhân này bao gồm corticosteroid, methylene xanh, vitamin (acid ascorbic hoặc thiamine).
Corticosteroid là tác nhân được nghiên cứu nhiều trong vai trò điều trị bổ trợ ở bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn. Corticosteroid liều trung bình (< liều tương đương hydrocortisone 400 mg/ngày) có bằng chứng mạch trong việc làm tăng huyết áp và giảm thời gian sốc. Tuy nhiên, corticosteroid có thể làm tăng nguy cơ xảy ra biến cố có hại chẳng hạn như tăng đường huyết, tăng natri máu và yếu cơ. Các hướng dẫn hiện có khuyến nghị sử dụng corticosteroid ở bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn có nhu cầu lên thang thuốc vận mạch. Cơ sở của việc bổ sung corticosteroid cho nhóm bệnh nhân này có thể là do corticosteroid có thể hoạt động như một tác nhân vasopressor-sparing để làm giảm những biến cố có hại liên quan đến thuốc vận mạch liều cao10.
Đối với phối hợp fludrocortisone và hydrocortisone, 2 thử nghiệm lâm sàng cho thấy lợi ích lâm sàng của phối hợp này, trong khi đó các thử nghiệm hydrocortisone đơn trị lại không cho thấy lợi ích tương tự 11 – 14. Thử nghiệm so sánh trực tiếp phối hợp hydrocortisone với fludrocortisone và hydrocortisone đơn trị cho thấy điều trị phối hợp làm giảm 3% nguy cơ tử vong nội trú15.
Khuyến nghị bổ sung phối hợp hydrocortisone và fludrocortisone trong vòng 7 ngày mà không xuống thang được đưa ra dựa trên kết quả của thử nghiệm APROCCHSS11. Tuy nhiên, khoảng thời gian điều trị tối ưu vẫn chưa được chắc chắn và bằng chứng cho vấn đề này vẫn chưa được rõ ràng. Nếu tình trạng sốc tái diễn sau khi ngưng corticosteroid, thì corticosteroid có thể được cân nhắc tái sử dụng, đồng thời tiến hành đánh giá nguy cơ gây ra tình trạng sốc.
Bằng chứng cho việc sử dụng methylene xanh trong phác đồ điều trị sốc nhiễm khuẩn vẫn chưa có nhiều. Một thử nghiệm pilot cho thấy mehylene xanh có thể cải thiện huyết áp trung bình và tần số tim. Do vậy, methylene xanh có thể được cân nhắc sử dụng ở bệnh nhân sốc khó trị đã được điều trị bằng nhiều thuốc vận mạch và corticosteroid.
Nhiều thử nghiệm lâm sàng đã được tiến hành để làm rõ lợi ích của acid ascorbic đối với bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn. Các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên đều không cho thấy được lợi ích của acid ascorbic. Do vậy, acid ascorbic hoặc thiamine không được cân nhắc sử dụng khi điều trị bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn.
Kiểm soát bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn thường khá phức tạp. Cách tiếp cận điều trị sốc nhiễm khuẩn nhìn chung được mô tả trong hình 1.
Hình 1.
Tóm tắt chiến lược kiểm soát bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn
Bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn (septic shock) cần được điều trị bằng các tác nhân vận mạch để điều chỉnh huyết áp và giải quyết tình trạng nhiễm toan lactic do nhiễm trùng. Có tới 30 – 40% trường hợp sốc nhiễm khuẩn bị tử vong. Bác sĩ cần đưa ra nhiều quyết định điều trị khi kiểm soát bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn, bao gồm lựa chọn thuốc vận mạch và các biện pháp điều trị bổ trợ, Bài viết này hỗ trợ độc giả trả lời cho câu hỏi “làm thế nào” bằng những ví dụ thực tế trong việc đưa ra lựa chọn thuốc vận mạch đầu tay, đưa ra huyết áp đích, đường dùng của thuốc vận mạch, lựa chọn thuốc vận mạch hàng 2 và các thuốc điều trị bổ trợ.
Chúng tôi hân hạnh giới thiệu đến các bạn đọc phần tiếp theo của bài viết Làm thế nào để lên thang thuốc vận mạch và corticoid trong điều trị sốc nhiễm khuẩn? Những ví dụ thực tế. Nếu quý vị đồng nghiệp có nhu cầu xem lại bài viết phần 1, click vào đường dẫn: https://docquity.app.link/GdMwxSFHSyb
VÍ DỤ 2
Sau 24 giờ, bệnh nhân cần được tăng liều norepinephrine lên đến 0.5 µg/kg/phút. Bệnh nhân cũng được đặt catheter tĩnh mạch trung tâm. Nhu cầu oxy và thuốc vận mạch được cải thiện. Kháng sinh được thu hẹp, có phổ trên Escherichia coli dựa trên kết quả nuôi cấy.
Sau khi tình trạng của bệnh nhân dần được cải thiện, vào ngày thứ 5, tình trạng của bệnh nhân lại trở nặng. Huyết áp của bệnh nhân hạ xuống nhanh chóng mặc dù đã được điều trị bằng norepinephrine liều 0.5 µg/kg/phút, vasoprssine liều 2.4 đơn vị/giờ được bổ sung và sau đó tiếp tục được bổ sung epinephrine liều 0.3 µg/kg/phút. Huyết áp của bệnh nhân là 95/40 mmHg (huyết áp trung bình 57 mmHg), tần số tim 110 nhịp/phút. Bệnh nhân cũng được khởi đầu điều trị bằng phối hợp hydrocortisone và fludrocortisone. Đầu chi của bệnh nhân có đốm. Nồng độ lactate huyết thanh là 4.5 g/l. Không có bằng chứng xuất huyết, hội chứng chèn ép khoang bụng hay tràn khí màng phổi. Kết quả siêu âm tim vẫn không thay đổi, không có dấu hiệu chèn ép tim, rối loạn mới ở tâm thất trái và phải.
Chẩn đoán nào nên được cân nhắc ở bệnh nhân sốc dai dẳng hoặc sốc trở nặng?
Sốc trở nặng hoặc sốc dai dẳng mặc dù đã được kiểm soát nguồn căn ban đầu và điều trị hồi sức nên được nhanh chóng cân nhắc đánh giá chẩn đoán bổ sung. Nguyên nhân thường gặp và đánh giá được cân nhắc cho những trường hợp sốc trở nặng sau khi đã được kiểm soát nguồn căn ban đầu được thể hiện trong bảng 1. Một số yếu tố gây trở nặng tình trạng sốc thường bao gồm nhiễm trùng bệnh viện, sốc tắc nghẽn do thuyên tắc phổi hoặc hội chứng chèn ép khoang bụng hoặc sốc tim do bệnh lý cơ tim do nhiễm khuẩn hoặc loạn nhịp.
Bảng 1. Những cân nhắc lâm sàng ở bệnh nhân có tình trạng sốc trở nặng
Nên ngừng lên thang thuốc vận mạch ở liều nào?
Không có ngưỡng liều cụ thể ngừng lên thang norepinephrin hay epinephrine. Nếu không có dấu hiệu cho thấy huyết áp gần đạt mức huyết áp trung bình đáp ứng khi điều trị bằng norepinephrine hoặc epinephrine ở liều cao hơn, thì không có giới hạn cho việc lên thang các thuốc vận mạch. Tuy nhiên, vasopressin thường không được chỉnh liều quá 2.4 đơn vị/giờ. Nhiều nghiên cứu tiến hành đánh giá bệnh nhân được điều trị sốc nhiêm khuẩn bằng thuốc vận mạch liều cao, kết quả thấy tỷ lệ sống sót giao động khoảng 10 – 54% 2 – 6. Trong thử nghiệm APROCCHSS, liều norepinephrine trung bình là 1.08 µg/kg/phút và liều epinephrine trung bình là 2.01 µg/kg/phút.
Có nên đặt catheter động mạch trung tâm khi điều trị bệnh nhân sốc khó trị?
Catheter động mạch trung tâm thường được đặt ở bệnh nhân sốc khó trị và có dấu hiệu lâm sàng trở nặng ngay cả khi đã được tăng liều thuốc vận mạch. Hướng dẫn Surviving Sepsis Campaign đưa ra khuyến cáo yếu cho việc theo dõi huyết áp xâm lấn nhưng không chỉ rõ nên theo dõi huyết áp bằng đường trung tâm hay ngoại biên7.
Có nên điều trị nhiễm toan?
Đối với bệnh nhân nhiễm toan máu nghiêm trọng, tổn thương thận cấp và sốc khó trị có thông khí dự trữ, natri bicarbonate thường được chỉ định với pH mục tiêu > 7.3, đồng thời trị liệu thay thế thận liên tục cũng được khởi đầu nếu tình trạng nhiễm toan máu vẫn không được kiểm soát tốt. Natri bicarbonate và liệu tháp thay thế thận có thể điều chỉnh tình trạng nhiễm toan ngắn hạn.
VÍ DỤ 3
Kết quả cấy máu của bệnh nhân dương tính với Staphylococcus aureus kháng methicillin. Bệnh nhân được kê đơn kháng sinh phù hợp và đặt catheter tĩnh mạch trung tâm. Lactate huyết thanh và tình trạng giãn mạch được cải thiện, tuy nhiên, bệnh nhân vẫn tiếp tục được điều trị bằng norepinephrine ở liều 0.3 µg/kg/phút và vasopressin. Huyết áp của bệnh nhân là 90/50 mmHg (huyết áp trung bình 63 mmHg) và tần số tim 95 nhịp/phút. Kết quả siêu âm tim không thay đổi và kết quả cấy lặp lại âm tính.
Nên ngưng thuốc vận mạch như thế nào?
Nên ngưng norepinaphrine trước, rồi đến vasopressin ở bệnh nhân được điều trị bằng cả 2 tác nhân này và có cải thiện về mặt lâm sàng. Không có nhiều dữ liệu nghiên cứu về việc ngưng thuốc vận mạch. Một vài nghiên cứu quan sát, đơn trung tâm cho thấy ở bệnh nhân được điều trị bằng cả norepinephrine và vasopressin, việc ngưng vasopressin trước có thể làm tăng nguy cơ hạ huyết áp 8 – 11. Điều này cho thấy norepinephrine nên được ngưng đầu tiên.
VÍ DỤ 4
Chi của bệnh nhân ấm và được tưới máu tốt, tình trạng tâm thần và chức năng thận cũng được cải thiên, tuy nhiên, khi hạ liều vasopressin (2.4 đơn vị/giờ) làm hạ huyết áp trung bình xuống mức 60 mmHg.
Nên làm thế nào ở bệnh nhân giãn mạch dai dẳng và không thể ngưng thuốc vận mạch đường tiêm tĩnh mạch?
Đối với bệnh nhân có cải thiện về mặt lâm sàng, tuy nhiên vẫn bị giãn mạch nhẹ, dai dẳng, huyết áp trung bình mục tiêu được hạ xuống còn 60 mmHg để hỗ trợ quá trình ngưng thuốc vận mạch. Nhiều khi, thuốc an thần cũng có thể dẫn đến tình trạng hạ áp, do vậy nên điều chỉnh thuốc an thần để giảm nhu cầu thuốc vận mạch. Nếu cần thiết thì nên tiến hành tái đánh giá (theo bảng 1) để xác định những yếu tố có thể dẫn đến tình trạng cần thuốc vận mạch dai dẳng.
Ở bệnh nhân đã được hạ huyết áp trung bình mục tiêu và tối thiểu hóa thuốc an thần nhưng vẫn không hiệu quả, đặc biệt ở bệnh nhân suy gan, suy thận thì có thể cân nhắc midodrine. Midodrine thường được kê đơn với luefeu 10 – 20 mg mỗi 8 giờ với liều giảm dần hoặc ngưng ngay sau đó để tránh tình trạng sử dụng kéo dài sau khi xuất viện. Nếu không có tiến triển trong việc đạt huyết áp trung bình mục tiêu, thì midodrine được ngưng sau 24 – 48 giờ.
KẾT LUẬN
Ở đa số bệnh nhân, norepinephrine thường được khởi đầu trước, có thể bằng đường tĩnh mạch ngoại biên hoặc catheter midline. Huyết áp trung bình mục tiêu thường là 60 – 65 mmHg. Nếu liều norepinephrine sử dụng gần đạt mức 15 µg/phút, vasopressin bằng catheter tĩnh mạch trung tâm được lựa chọn là thuốc vận mạch bổ sung cho đa số bệnh nhân. Phối hợp hydrocortisone và fludrocartisone trong vòng 7 ngày cũng thường được kê đơn. Đồng thời, những nguyên nhân khác đồng thời gây sốc cũng được đánh giá. Đối với bệnh nhân sốc khó trị, việc theo dõi huyết áp động mạch trung tâm và điều trị nhiễm toan được cân nhắc. Nếu tình trạng giãn mạch nhẹ vẫn tiếp tục dai dẳng mà không có dấu hiệu thiếu máu cục bộ ngọn chi, huyết áp trung bình mục tiêu được giảm xuống 60 mmHg, đồng thời điều chỉnh hoặc ngưng thuốc an thần nếu có thể, nếu cần thiết thì midodrine cũng được kê đơn.
Tài liệu tham khảo
- Demiselle J, Fage N, Radermacher P, Asfar P. Vasopressin and its analogues in shock states: a review. Ann Intensive Care. 2020;10(1):9.
- Annane D, Renault A, Brun-Buisson C, et al. Hydrocortisone plus fludrocortisone for adults with septic shock. N Engl J Med. 2018;378(9):809-818.
- Martin C, Medam S, Antonini F, et al. Norepinephrine: not too much, too long. Shock. 2015;44(4):305-309.
- Brown SM, Lanspa MJ, Jones JP, et al. Survival after shock requiring high-dose vasopressor therapy. Chest. 2013;143(3):664-671.
- Auchet T, Regnier MA, Girerd N, Levy B. Outcome of patients with septic shock and high-dose vasopressor therapy. Ann Intensive Care. 2017;7(1):43.
- Morelli A, Ertmer C, Lange M, et al. Effects of short-term simultaneous infusion of dobutamine and terlipressin in patients with septic shock: the DOBUPRESS study. Br J Anaesth. 2008;100(4): 494-503.
- Evans L, Rhodes A, Alhazzani W, et al. Surviving sepsis campaign: international guidelines for management of sepsis and septic shock 2021. Intensive Care Med. 2021;47(11):1181-1247.
- Hammond DA, McCain K, Painter JT, et al. Discontinuation of vasopressin before norepinephrine in the recovery phase of septic shock. J Intensive Care Med. 2019;34(10):805-810.
- Bissell BD, Magee C, Moran P, Bastin MLT, Flannery AH. Hemodynamic instability secondary to vasopressin withdrawal in septic shock. J Intensive Care Med. 2019;34(9):761-765.
- Bauer SR, Aloi JJ, Ahrens CL, Yeh JY, Culver DA, Reddy AJ. Discontinuation of vasopressin before norepinephrine increases the incidence of hypotension in patients recovering from septic shock: a retrospective cohort study. J Crit Care. 2010;25(2):362.e367. 362. e311.
- Musallam N, Altshuler D, Merchan C, Zakhary B, Aberle C, Papadopoulos J. Evaluating vasopressor discontinuation strategies in patients with septic shock on concomitant norepinephrine and vasopressin infusions. Ann Pharmacother. 2018;52(8):733-739.