Tỉ số AST/ALT còn gọi là tỉ số De Ritis. Theo tên tác giả Fernando De Ritis. Người đề xuất phân tích men gan 1957

Tỉ số AST/ALT còn gọi là tỉ số De Ritis. Theo tên tác giả Fernando De Ritis. Người đề xuất phân tích men gan 1957

 Tỷ lệ AST / ALT là tỷ lệ giữa nồng độ enzym transaminase aspartate (AST) và alanine transaminase (ALT) trong máu của người hay động vật. Nó được đo bằng xét nghiệm máu, đôi khi giúp chẩn đoán phân biệt giữa nguyên nhân gây tổn thương gan hoặc nhiễm độc gan. 

Hầu hết các nguyên nhân gây tổn thương tế bào gan thường liên quan tới ALT (GPT) hơn là liên quan với AST (SGOT). Tuy nhiên, AST/ ALT = 2 hoặc lớn hơn gợi ý bệnh gan do rượu, đặc biệt khi có GPT transferase gamma-glutamyl tăng cao 

AST / ALT cũng có thể tăng ở bệnh nhân viêm gan nhiễm mỡ không do rượu, và nó thường tăng  lên ở bệnh gan do rượu của các bệnh nhân viêm gan C đã phát triển xơ gan. Ngoài ra, bệnh nhân có bệnh xơ gan hoặc Wilson do viêm gan siêu vi có thể có AST lớn hơn ALT, mặc dù tỷ lệ thường không lớn hơn hai.

Khi AST cao hơn ALT, thường xem xét lại nguyên nhân liên quan cơ bắp. Ví dụ, viêm cơ do viêm da cơ làm AST> ALT. Đây là một lời nhắc nhở tốt rằng AST và ALT không phải là chỉ số đáng tin cậy vì nó không phản ảnh  khả năng tổng hợp của gan và chúng có thể tăng do nguyên nhân từ các mô khác mà không phải gan (như bắp thịt).

AST và ALT cao 

Độ tăng AST và ALT khác nhau tùy thuộc vào nguyên nhân của tổn thương tế bào gan .Trong khi các giá trị có thể khác nhau giữa các cá nhân, dưới đây là mẫu ÁT và ALT điển hình liên quan tới giá trị trên mức bình thường (ULN) "upper limit of normal"

bệnh gan nhiễm mỡ do rượu: AST <8 lần ULN; ALT <5 lần ULN

bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu: AST và ALT <4 lần ULN

Viêm gan cấp tính do virus viêm gan hoặc độc tố liên quan đến bệnh vàng da: AST và ALT> 25 lần ULN

bệnh gan thiếu máu cục bộ (viêm gan thiếu máu, sốc gan): AST và ALT> 50 lần ULN (ngoài ra  lactate dehydrogenase thường tăng lên rõ rệt)

viêm gan C mạn: biến động, thường thường dưới hai lần ULN, hiếm khi hơn 10 lần ULN

viêm gan B mạn tính: biến động; AST và ALT có thể bình thường, mặc dù hầu hết bệnh nhân có tăng nhẹ (khoảng hai lần ULN) đến trung bình; trong trường hợp cấp tính, tăng hơn 10 lần ULN

tỷ lệ AST/ ALT được sử dụng như một trợ giúp chẩn đoán:

tỷ lệ AST/ALT > 2 đặc trưng ở những bệnh nhân bị bệnh gan do rượu

mức độ AST tăng không tương xứng với mức độ tăng ALT do thiếu hụt các yếu tố pyridoxine-5-phosphate. tuy nhiên kết quả này không loại trừ chẩn đoán khác

trong viêm gan virus 

AST/ ALT  thường nhỏ hơn 1 (đặc biệt đúng ở những bệnh nhân viêm gan C), có thể tăng khi có xơ hóa và xơ gan tiến triển

Cơ chế chính xác gây thay đổi tỷ lệ AST: ALT trong sự tiến triển của bệnh gan chưa rõ ràng  và mối tương quan với độ chính xác ở mức độ tiên đoán xơ hóa và xơ gan còn gây tranh cãi

trong nhiều trường hợp tổn thương gan cấp tính và mãn tính hoặc nhiễm mỡ (thâm nhiễm mỡ ở gan), tỷ lệ này thường nhỏ hơn hoặc bằng 1

nghiên cứu 140 bệnh nhân bị viêm gan nhiễm mỡ không do rượu (NASH; khẳng định bằng sinh thiết gan) hoặc bệnh gan do rượu thấy tỷ lệ trung bình AST / ALT = 0,9 ở những bệnh nhân bị NASH và 2,6 ở những bệnh nhân bị bệnh gan do rượu

87 phần trăm bệnh nhân có tỷ lệ AST / ALT < 1,3 có NASH (87 phần trăm, độ đặc hiệu 84 phần trăm) , nguy cơ  xơ hóa tăng lên khi AST / ALT > 1,4 đã được kiểm chứng thấy bệnh nhân NASH có tiến triển xơ hoá

bệnh Wilson có thể cótỷ lệ AST / ALT > 4 




nguồn:

(1) Gopal DV, Rosen HR. Abnormal findings on liver function tests Interpreting results to narrow the diagnosis and establish a prognosis. Postgraduate Medicine 

(2) orbi D et al. The ratio of aspartate aminotransferase to alanine aminotransferase: potential value in differentiating nonalcoholic steatohepatitis from alcoholic liver disease. Am J Gastroenterol 

(3) Davern TJ, Scharschmidt BF. Biochemical liver tests. In: Feldman M, Friedman LS, Sleisenger MH, eds. Sleisenger & Fordtran's Gastrointestinal and liver disease: pathophysiology, diagnosis, management. 7th ed. Philadelphia: Saunders,



Cuộc đời thì ngắn, mà nghề thì miên man; cơn bệnh phập phù; kinh nghiệm hiểm nguy, còn quyết định thì thật khó. Người thầy thuốc không phải chỉ chuẩn bị để tự mình làm đúng, mà còn khiến cho bệnh nhân, người đi theo và các yếu tố xung quanh hợp tác hài hòa.

Tham gia Group Telegram và Zalo cùng chúng tôi để nhận thông báo mới nhất cũng như giao lưu - chia sẻ nhé

Icons with Group Links
Telegram
Zalo

About the author

TBFTTH
Cuộc đời thì ngắn, mà nghề thì miên man;cơn bệnh phập phù;kinh nghiệm hiểm nguy, còn quyết định thì thật khó.Người thầy thuốc không phải chỉ chuẩn bị để tự mình làm đúng, mà còn khiến cho bệnh nhân, người đi theo và các yếu tố xung quanh hợp tác hài…

Đăng nhận xét