000 |
Mục lục bài viết
Chú ý: Thông tin về sức khỏe trong tài liệu này chỉ được cung cấp cho mục đích giáo dục. Tất cả các quyết định liên quan đến việc chăm sóc bệnh nhân phải được xem xét dựa trên các đặc điểm riêng biệt của từng bệnh nhân và dựa trên đánh giá và chỉ định điều trị của nhân viên y tế
Xin kính mời quý bác sĩ đón xem Ely Xpress số thứ 2 với chủ đề:"Kiểm soát tối ưu chỉ số INR: Liệu đã là tốt nhất ?"
Hi vọng những nội dung này sẽ giúp ích cho quý bác sĩ trên thực hành lâm sàng.
Một số từ viết tắt trong bài viết:
NOAC: Non-Vitamin K oral anticoagulant - thuốc chống đông đường uống không phải kháng vitamin K
VKA: Vitamin K antagonist - Thuốc đối kháng vitamin K
VTE: Venous Thrombosis Embolism - Thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch
PE: Pulmonary Embolism - Thuyên tắc phổi
DVT: Deep Vein Thrombosis - Thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch sâu
RCT: Randomized Controlled Trial - Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng
VS: Versus - so với
INR: International Normalized Ratio – Chỉ số bình thường hóa quốc tế
I. Vai trò của VKA trong dự phòng đột quỵ ở bệnh nhân rung nhĩ được thiết lập đã lâu
Rung nhĩ là một rối loạn nhịp tim dai dẳng phổ biến nhất với gánh nặng bệnh tật và tử vong đáng kể.1 Trong nhiều thập kỷ, thuốc kháng vitamin K (VKA) là thuốc chính được sử dụng cho phòng ngừa đột quỵ trên bệnh nhân rung nhĩ. Tuy nhiên việc sử dụng VKA bị hạn chế bởi khoảng điều trị hẹp, cần phải theo dõi thường xuyên và điều chỉnh liều dẫn đến nhiều rủi ro và bất tiện.1,2
II. Chỉ số INR tối ưu khi sử dụng VKA ở bệnh nhân rung nhĩ3
Theo một nghiên cứu của Anders Odén và cộng sự3, đăng trên chuyên san Thrombosis Research năm 2006. Nhóm tác giả đã tiến hành:
- Sử dụng MEDLINE để tìm kiếm trong Y văn các dữ liệu được công bố trong khoảng thời gian từ năm 1980 đến tháng 7 năm 2004, sử dụng tổ hợp các thuật ngữ như rung nhĩ, warfarin, chống đông, cường độ chống đông, và INR mà không giới hạn về mặt ngôn ngữ.
- Tiến hành phân tích các báo cáo về mối liên quan chỉ số chênh nguy cơ tử vong và INR trên 21,967 bệnh nhân. Tương tự, nguy cơ nhập viện hoặc tử vong vì bệnh lý mạch máu não cũng được ước tính.
- Sau đó phân tích lại dữ liệu vừa được công bố gần đây bởi Hylek và cộng sự từ năm 2003
Nhóm tác giả kết luận rằng, với bệnh nhân rung nhĩ không do van tim thì mức INR từ 2.0 - 2.5 cho thấy nguy cơ đột quỵ và tử vong là thấp nhất. Vì vậy, chỉ số INR từ 2.0 - 2.5 được xem là tối ưu trên bệnh nhân rung nhĩ được điều trị với VKA
III. Duy trì trị số INR trong khoảng 2.0 - 2.5 liệu đã là tốt nhất cho bệnh nhân Rung nhĩ?
Đầu tiên chúng ta cần biết mối tương quan giữa chỉ số INR và các kết cục lâm sàng ở bệnh nhân Rung nhĩ sử dụng warfarin là như thế nào, và liệu rằng chỉ số INR trước đó có giá trị tiên đoán cho chỉ số INR trong tương lai hay không. Phân tích của tác giả Guimarães và cộng sự được đăng trên chuyên san Journal of Thrombosis and Thrombolysis vào năm 2019 đã trả lời cho các câu hỏi này với các ý tóm lược như sau:
- Ở bệnh nhân Rung nhĩ sử dụng warfarin, hầu hết các biến cố xuất huyết xảy ra có lẽ là không thể ngăn ngừa được bất kể việc kiểm soát INR là chặt chẽ.
- Nhóm tác giả cũng gợi ý rằng việc sử dụng chỉ số INR thông qua cách quản lý thường quy là không đủ mạnh để đảm bảo rằng sẽ đạt được thời gian trong khoảng điều trị lý tưởng trong tương lai, cũng như không đảm bảo sẽ ngăn ngừa được các biến cố bất lợi.4
Điểm đáng chú ý trong dữ liệu được báo cáo đó là chỉ số INR trước lúc biến cố lâm sàng xảy ra và chỉ số TTR% (bảng 1).
Rất ngạc nhiên khi chỉ số INR trước biến cố hầu hết nằm trong khoảng tối ưu từ 2.0 - 2.5. Cụ thể chỉ số INR trước biến cố (trung vị 14 [24, 7] ngày) là < 3.0 ở ít nhất 75% bệnh nhân bị xuất huyết nặng và > 2.0 ở một nửa số bệnh nhân bị đột quỵ thiếu máu. Dữ liệu này cho thấy dù kiểm soát tốt INR ở khoảng tối ưu thì biến cố vẫn xảy ra với bệnh nhân (bảng 1).
VKA KHÔNG CÒN LÀ LỰA CHỌN ƯU TIÊN
Gần đây, các thuốc chống đông máu đường uống thế hệ mới hay còn được gọi là thuốc chống đông máu đường uống không phải kháng vitamin K (NOAC) như apixaban, dabigatran, rivaroxaban, và edoxaban đã được phát triển với những bằng chứng thuyết phục về hiệu quả và độ an toàn cùng với hồ sơ dược động học có nhiều ưu điểm hơn so với VKA. Bên cạnh VKA, các NOAC đã được đưa vào khuyến cáo của Hiệp hội Tim mạch Châu Âu (ESC) cho dự phòng biến cố huyết khối ở bệnh nhân rung nhĩ.1
KHUYẾN CÁO CỦA HỘI TIM MẠCH CHÂU ÂU NĂM 2020
Tài liệu tham khảo
- Hindricks G et al. European Heart Journal. 2020; 00:1-125
- Zirlik A and Bode C. J Thromb Thrombolysis. 2017; 43:365-379
- Anders Odén, et al., Thrombosis Research, Volume 117, Issue 5, 2006, Pages 493-499
- Guimarães et al., Journal of Thrombosis and Thrombolysis (2019) 48:27–34
Cuộc đời thì ngắn, mà nghề thì miên man; cơn bệnh phập phù; kinh nghiệm hiểm nguy, còn quyết định thì thật khó. Người thầy thuốc không phải chỉ chuẩn bị để tự mình làm đúng, mà còn khiến cho bệnh nhân, người đi theo và các yếu tố xung quanh hợp tác hài hòa.
Tham gia Group Telegram và Zalo cùng chúng tôi để nhận thông báo mới nhất cũng như giao lưu - chia sẻ nhé