CRP

 Tóm lược

Tăng C-reactive protein (CRP) là một phần trong đáp ứng phase-cấp của viêm cấp hoặc viêm mạn. Nó nhạy hơn erythrocyte sedimentation rate (ESR) trong đáp ứng và  độ đặc hiệu của viêm. Tăng CRP chỉ điểm tình trạng viêm hoặc nhiễm trùng trong tình cảnh lâm sàng thích hợp, nó cũng có thể tăng trong béo phì hoặc rối loạn chức năng thận. Ngược lại, CRP không tăng trong viêm có thể xuất hiện ở người bị suy gan cũng như các đợt bùng phát của các tình trạng nhưng Lupus ban đỏ hệ thống. Sử dụng CRP nhằm đánh giá  nguy cơ tim mạch không được khuyến cáo trên lâm sàng.


Giới thiệu

Tăng CRP cho thấy xuất hiện tình trạng viêm. Phần lớn, các xét nghiệm CRP được chỉ định để phát hiện phản ứng viêm liên quan đến vi khuẩn, bệnh tự miễn và dị ứng thuốc (đặc biệt là kháng sinh).

Đáp ứng viêm

Viêm là một phản ứng bảo vệ của mô liên kết mạch máu với các tác nhân gây tổn thương. Đáp ứng viêm liên quan đến tình trạng dãn mạch, tăng tính thấm thành mạch, kêu gọi các tế bào viêm (đặc biệt là Neutrophils trong viêm cấp), giải phóng các hóa chất trung gian từ các tế bào này bao gồm các amines hoạt mạch, Postanoids, oxygen intermediates và cytokines. Cytokines có nguồn gốc từ các đại thực bào và Mono bào bao gồm yếu tố hoại tử mô alpha (TNF-a), IL-1, IL-6. Các cytokines này chịu trách nhiệm trung gian cho “đáp ứng phase cấp”. Chúng thay đổi các sản phẩm Protein khác nhau trong huyết tương tại tế bào gan, bao gồm tăng C-reactive protein (CRP). Ảnh hưởng của tình trạng viêm trên một số Protein trong giai đoạn cấp tính được thể hiện trong Bảng 1.



Bảng 1

C-reactive protein

C-reactive protein (CRP) đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ bản thân chống lại nhiễm trùng. Nó được đặt tên như thế bởi vì nó phản ứng với C-polysaccharide của Streptococcus pneumoniae. Khi có sự hiện diện của Calcium, CRP liên kết đặc biệt với polysaccharides như các gốc phosphocholine trên bề mặt tế bào của một số vi khuẩn gây bệnh. Khi CRP bám vào, hoạt hóa bổ thể theo con đường cổ điển và opsonines ligands cho sự thực bào. Nó cũng trung hòa yếu tố hoạt hóa tiểu cầu gay6 viêm và làm giảm điều hòa polymorphs.

CRP được tạo ra chủ yếu ở gan và được tiết ra với số lượng tăng lên trong 6 giờ từ khi có tình trạng viêm cấp. Nồng độ trong huyết tương có thể gấp đôi ít nhất sau 8 giờ, đạt điển sau 50 giờ. Sau khi điều trị hiểu quả hoặc loại bỏ tác nhân gây viêm, nồng độ CRP có thể giảm nhanh chóng. Sự đáp ứng của CRP có thể bị giảm bởi rối loạn tế bào gan mức độ nặng, nhưng rối loạn chức năng thận có thể tăng nồng độ CRP.


Khoảng giá trị bình thường

Nồng độ CRP bình thường của CRP là 0.8 mg/L, khoảng 90% các cá nhân khỏe mạnh có giá trị ít hơn 3 mg/L và 99% ít hơn 12 mg/L. Tăng CRP là một tình trạng bất thường và cho thấy sự rối loạn cơ quan, mặc dù tăng CRP tối thiểu cũng có thể gặp ở những người béo phì.

Test CRP có thể khác nhau ở các phòng Labor. Do đó, khuyến cáo đánh giá các giá trị CRP liên tục (đánh giá Series CRP) nên được thực hiện ở cùng một phòng Labor nếu có thể, nhằm hạn chế sai sót.

“Siêu nhạy” hoặc “độ nhạy cao” CRP thường được dùng để đo tình trạng thay đổi CRP rất nhỏ, xảy ra dưới mức “bình thường” được sử dụng để xác định tình trạng nhiễm trùng và viêm đáng kể.

Sử dụng CRP trên lâm sàng

Giá trị CRP cao không phải là đặc hiệu cho bất kì tình trạng nào, nó là một dấu hiệu nhạy cảm cho phản ứng viêm (> 90%) và là một công cụ có giá trị để đánh giá lâm sàng cẩn thận. Không có sự tương quan rõ ràng giữa nồng độ CRP và độ nặng của bệnh. Tình trạng thông thường nhất liên quan đến sự gia tăng CRP được liệt kê trong Bảng 2. Mặc dù, có bằng chứng rõ ràng về tình trạng viêm và/hoặc tổn thương mô, một số tình trạng thường chỉ tăng nhẹ hoặc không tăng CRP (Bảng 2). Ở một số tình trạng này, CRP vẫn ở giá trị bình thường mặc dù đây là tình trạng nặng. Cơ chế của sự thất bại “chọn lọc” của CRP trong phản ứng phase cấp vẫn chưa chắc chắn.





Bảng 2

Theo dõi mức độ và tình trạng bệnh

Khi viêm, CRP có thể được dùng để đánh giá điều trị. Ví dụ như viêm khớp dạng thấp, nồng độ CRP tương ứng tốt với tình trạng bệnh và hiệu quả điều trị.

Sàng lọc nhiễm trùng

Như là một công cụ để đánh giá lâm sàng, test CRP có thể có ích để phân biệt nhiễm vi khuẩn hoặc virus. Giá trị CRP rất cao (> 100 mg/L) rất có thể là tình trạng nhiễm vi khuẩn hơn là virus, và giá trị CRP bình thường cho thấy ít có khả năng là nhiễm vi khuẩn đáng kể. Tuy nhiên, giá trị CRP trung bình (10 – 50 mg/L) có thể thấy ở cả nhiễm vi khuẩn hoặc virus. Thực hiện các Test khác trong phản ứng phase cấp như Procalcitonin đã được ủng hộ như là một sự thay thế ở những trường hợp này, nhưng những dữ liệu còn quá sơ bộ để khuyến cáo áp dụng nó.

Phát hiện và quản lý nhiễm trùng

Khả năng lây nhiễm luôn luôn cần được chú ý, đặc biệt khi dùng thuốc ức chế miễn dịch. Nhiễm khuẩn được theo dõi hữu hiệu bởi CRP trong các trường hợp như viêm đài bể thận, nhiễm trùng vùng chậu, viêm màng não và viêm nội tâm mạc. Series CRP là những bổ sung quan trọng cho việc sử dụng biểu đồ nhiệt độ trong thực hành lâm sàng, vì nồng độ CRP không ảnh hưởng bởi thuốc hạ sốt hoặc yếu tố điều hòa thân nhiệt.

Ở các tình trạng như Lupus ban đỏ hệ thông và viêm loét đại tràng, khó chẩn đoán giữa những đợt bùng phát của bệnh và bội nhiễm. Giá trị CRP tăng trên mức bình thường có thể cung cấp thông tin có giá trị về sự nhiễm trùng.


Hội chứng chuyển hóa

Hội chứng chuyển hóa đề cập đến yếu tố nguy cơ của bệnh mạch vành và đái tháo đường type 2, thường liên quan đến béo phì và kháng Insulin. Vai trò của viêm trong hội chứng chuyển hóa ngày càng được công nhận. 

Tỉ lệ lắng đọng hồng cầu (ESR)

Test erythrocyte sedimentation rate (ESR) cũng là công cụ chỉ điểm tình trạng viêm. Nó phản ánh nồng độ Fibrinogen và Alpha-globulins. Tuy nhiên, ESR cũng bị ảnh hưởng bởi Immunoglobulins, là một Protein không thuộc phase cấp. Những Protein này có thời gian bán hủy từ vài ngày đến vài tuấn, và có thời gian trễ đáng kể giữa những thay đổi trên lâm sàng và giá trị ESR. Điều này, cộng thêm ảnh hưởng từ các tác nhân khác tác động trên ESR như là biến đổi ngày đêm, thiếu máu, thức ăn và hình dạng tế bào máu, tất cả điều này làm cho nó không chính xác với hoàn cảnh lâm sàng trong hầu hết cases.

CRP hay ESR

CRP nhỉnh hơn ESR khi xét về tốc độ đáp ứng và đặc hiệu cho phản ứng viêm. Test CRP cũng chính xác hơn, có thể tái thực hiện và test nhanh hơn. Tuy nhiên, đo lường ESR vẫn giúp ích trong một số tình huống lâm sàng nhất định như là xác định Paraproteinaemias, thường không xuất hiện khi đáp ứng phase cấp.

CRP ảnh hưởng đến nguy cơ tim mạch như thế nào?

Nồng độ CRP có thể chỉ điểm nguy cơ tim mạch của bạn bởi vì nó phản ánh tình trạng xơ vữa động mạch (Cholesterol lắng động bên trong thành mạch máu) liên quan đến phản ứng viêm trong thanh mạch. Ở những người xơ vữa động mạch, CRP cao hơn những người không bị xơ vữa động mạch.


Xét nghiệm CRP đối với bệnh mạch vành

AHA không khuyến cáo hs-CRP cho tất cả mọi người. Thay vào đó, xét nghiệm này có lợi ở những bệnh nhân có nguy cơ tim mạch trong 10 năm là 5 - 10%. Nguy cơ trung bình được đánh giá dựa trên lối sống, tiền sử gia đình và tình trạng sức khỏe hiện tại

Những người có nguy cơ tim mạch thấp, sẽ không có lợi ích gì từ việc xét nghiệm hs-CRP. Những người có nguy cơ tim mạch cao, nên điều trị và dự phòng mặc dù hs-CRP thấp. 

Nguy cơ tim mạch: 

Thấp: < 1.0 mg/L

Trung bình: 1.0 – 3.0 mg/L

Cao: > 3.0 mg/L

Các yếu tố ảnh hưởng đến CRP 

Tăng: tăng huyết áp, tăng BMI, hội chứng chuyển hóa/đái tháo đường, nhiễm trùng mạn (viêm phế quản,…) viêm mạn (viêm khớp dạng thấp), HDL thấp và LDL cao, hút thuốc lá,

Giảm: sử dụng rượu bia, giảm cân, tăng cường hoạt động thể lực.

Giải thích kết quả xét nghiệm và ý nghĩa lâm sàng

Tăng trong:

-Viêm cấp không do nhiễm trùng (viêm khớp, sốt thấp khớp, bệnh Crohn,…)

-Bệnh Collagen-mạch máu (hội chứng viêm mạch máu, Lupus ban đỏ,…)

-Tổn thương mô (nhồi máu cơ tim, nhồi máu phổi, chấn thương mô mềm,…)

-Nhiễm khuẩn như nhiễm khuẩn vết mổ sau phẫu thuật, nhiễm trùng niệu, lao,…

-Bệnh lý ác tính

-Tăng nguy cơ mắc các biến cố tim mạch 

Kết luận

Khi sử dụng kết hợp với lâm sàng, CRP là công cụ hữu dụng nhằm đánh gía tình trạng nhiễm trùng hoặc viêm. Tuy nhiên, như bất kì các xét nghiệm khác, dương tính giả và âm tính giả vẫn có thể xảy ra và không test nào đại diên có thể thay thế để đánh giá lâm sàng.

Nguồn:

https://www.nps.org.au/australian-prescriber/articles/c-reactive-protein

https://www.mayoclinic.org/tests-procedures/c-reactive-protein-test/about/pac-20385228

Mosby ‘s Mannual of Diagnostic and Laboratory Test Fifth Edition (360-362)




 

Cuộc đời thì ngắn, mà nghề thì miên man; cơn bệnh phập phù; kinh nghiệm hiểm nguy, còn quyết định thì thật khó. Người thầy thuốc không phải chỉ chuẩn bị để tự mình làm đúng, mà còn khiến cho bệnh nhân, người đi theo và các yếu tố xung quanh hợp tác hài hòa.

Tham gia Group Telegram và Zalo cùng chúng tôi để nhận thông báo mới nhất cũng như giao lưu - chia sẻ nhé

Icons with Group Links
Telegram
Zalo

About the author

TBFTTH
Cuộc đời thì ngắn, mà nghề thì miên man;cơn bệnh phập phù;kinh nghiệm hiểm nguy, còn quyết định thì thật khó.Người thầy thuốc không phải chỉ chuẩn bị để tự mình làm đúng, mà còn khiến cho bệnh nhân, người đi theo và các yếu tố xung quanh hợp tác hài…

Đăng nhận xét