Chỉ số sốc – Shock Index

Chỉ số sốc – SI lần đầu được mô tả vào năm 1967 bởi Allgöwer and Buri, thời điểm đó được coi phương thức đơn giản và hiệu quả trong lượng giá sốc giảm
Chỉ số sốc – Shock Index
Chỉ số sốc – SI lần đầu được mô tả vào năm 1967 bởi Allgöwer and Buri, thời điểm đó được coi phương thức đơn giản và hiệu quả trong lượng giá sốc giảm thể tích trong xuất huyết và tình trạng sốc nhiễm trùng. Chỉ số sốc được tình bằng tỉ số giữa nhịp tim và huyết áp tâm thu. Theo một số kinh nghiệm và nghiên cứu lâm sàng cho thấy, SI có tương quan tuyến tính với chỉ số tim (CI), thể tích nhát bóp (SV), hoạt động của thất trái và huyết áp động mạch trung bình (MAP). Giá trị bình thường của SI dao động từ 0.5 – 0.7. Đối với trường hợp SI ≥  1.0 được xem là có ý nghĩa trong tiên lượng kết cục xấu ở những bệnh nhân suy tuần hoàn cấp. Ngoài ra, SI ≥ 1 còn gợi ý cho hoạt động bơm của tim hay co bóp thất trái không hiệu quả ở những bệnh nhân được được điều trị tích cực tình trạng sốc ở khoa cấp cứu. Năm 1994, Rady và cs đã chứng minh sử dụng SI ≥ 0.9 có tình trạng nặng nề hơn, thời gian nằm viện dài hơn, cũng như là mức độ cần chăm sóc tích cực nhiều hơn so với chỉ sử dụng huyết áp hay nhịp ti…

About the author

Cuộc đời thì ngắn, mà nghề thì miên man;cơn bệnh phập phù;kinh nghiệm hiểm nguy, còn quyết định thì thật khó.Người thầy thuốc không phải chỉ chuẩn bị để tự mình làm đúng, mà còn khiến cho bệnh nhân, người đi theo và các yếu tố xung quanh hợp tác hài…

Đăng nhận xét